Lịch sử Việt Nam
Hội nghị Paris, mặt trận ngoại giao năm 1968-1972
Hội nghị Paris, mặt trận ngoại giao năm 1968-1972

Hội nghị Paris về Việt Nam kết thúc với việc ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 đã buộc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam và mở đường cho sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà. Đây là kết quả của gần 5 năm đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, 500 buổi họp báo, gần 1.000 cuộc phỏng vấn và phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên khắp Thế giới.

 

 

 

Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam không phải là ngoại lệ với tình trạng "vừa đánh, vừa đàm". Lịch sử thế giới đã từng chứng kiến những điều tương tự xảy ra trong cuộc chinh phạt châu Âu của Napoleon (1799-1815), ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông của nhà Trần (thế kỷ XIII), cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (đầu thế kỷ XV). Nhưng ở thời điểm năm 1972, khi các bên đã bước vào một cuộc đua nước rút nhằm biến kết quả về quân sự trên chiến trường thành kết quả chính trị-ngoại giao được ghi nhận bằng một hiệp định. Chính vì vậy, có thể coi Hội nghị Paris không chỉ là cuộc đàm phán thông thường mà còn là một "cuộc chiến không tiếng súng" của các nhà ngoại giao các bên; có ảnh hưởng rất lớn tới những kết quả cuối cùng của chiến cục năm 1972 cũng như đến toàn bộ cuộc Chiến tranh Việt Nam.1 . Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa coi Hội nghị Paris không chỉ là các cuộc đàm phán ngoại giao thông thường mà còn là một mặt trận. Mặt trận ấy không chỉ có ý nghĩa tuyên truyền cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của người Việt Nam mà còn đem lại sự xác nhận những kết quả của các cuộc đấu tranh vũ trang và chính trị trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Theo đánh giá của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì:

 

“            Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trên chiến trường và là cơ sở cho thắng lợi của đấu tranh ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán những gì mà chúng ta giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không đơn thuần chỉ là phản ánh của tình hình chiến trường, mà trong bối cảnh quốc tế hiện nay và do tính chất của cuộc chiến tranh, đấu tranh ngoại giao còn đóng một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động       ”

— Kết luận của Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 13-Khoá III, .2

 

 

Kết quả quân sự của Chiến cục ở Việt Nam năm 1972 được ghi nhận tại các điểm b và c, Điều 3, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam có ý nghĩa như một bước ngoặt lớn không chỉ đối với người Việt Nam mà còn đối với cả thế giới, trước hết là ba cường quốc: Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Quốc. Nhà sử học Nga Ilya V. Gaiduk nhận xét: Đối với Moskva, sự chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam đánh dấu một giai đoạn mới trong chính sách đối ngoại của họ... chướng ngại vật đáng kể trên lộ trình hòa giải với phương Tây đã bị loại bỏ. Điều đó còn bao hàm một sự mềm dẻo hơn trong chính sách đối ngoại của Liên Xô đối với Trung Quốc... Xét về khía cạnh này, Chiến tranh Việt Nam là một bước ngoặt trong sự phát triển quan hệ quốc tế sau năm 1945 và là một phần mở đầu cho hai thập kỷ cuối của lịch sử Chiến tranh Lạnh.3 Ngạn ngữ Hy Lạp có câu: có lúc ném đá đi và có lúc phải nhặt đá về, có lúc ôm nhau và có lúc phải buông nhau ra.4 . Giống như các cuộc xung đột quân sự trên chiến trường đã kéo dài đến năm thứ 18, các bên tham chiến đều thấy rằng đã đến lúc phải đi đến một kết quả nhất định được đánh dấu bằng những thỏa thuận chính trị-ngoại giao được ghi nhận theo trình tự của công pháp quốc tế. Tại buổi gặp riêng lần thứ 15 ngày 1 tháng 8 năm 1972 tại nhà riêng của đoàn Việt Nam tại phố Darthé (Paris), Kissinger đề nghị: "Chúng tôi đồng ý cần giải quyết vấn đề chính trị và vấn đề quân sự cùng với nhau".5 Ông đã đưa ra một đề nghị mới gồm 12 điểm và cam đoan rằng Hoa Kỳ sẽ tôn trọng mọi sự thảo thuận không những về tinh thần mà còn cả về lời văn. Với cố gắng san lấp hố ngăn cách giữa những bất đồng của hai bên, Hoa Kỳ chấp nhận hình thức căn bản đề nghị bảy điểm và hai điểm nói rõ thêm của phía Việt Nam; đồng thời sẵn sàng bảo đảm với các đồng minh của Việt Nam, gắn mối quan hệ quan trọng của Hoa Kỳ với Liên Xô và Trung Quốc vào thiện chí của Hoa Kỳ ở Việt Nam.6 . Trong cuộc gặp riêng ngày 15 tháng 9 năm 1972; Lê Đức Thọ nêu một câu hỏi: "Ông có sẵn sàng đạt được một hiệp định về nguyên tắc đến một thời hạn nào đó không?". Kissinger trả lời: "Tôi thấy rằng không có điều gì bất lợi để ấn định một thời hạn cuối cùng trong lúc mà chúng ta chưa đưa thêm nhận nhượng nào".5 Hai bên hẹn gặp lại vào ngày 26 và 27 tháng 9. Và đến ngày 8 tháng 10, phía Việt Nam đưa ra bản dự thảo "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam".

 

Anchor

 

Trước khi đàm phán được tổ chức

Anchor

 

1964-1965 và quá trình tăng quân của Mỹ tại Việt Nam

Từ cuối năm 1964, những thất bại liên tiếp trên chiến trường, số lượng ấp chiến lược được giải phóng bởi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và lực lượng du kích liên tục tăng, không có dấu hiệu giảm và chính trường Sài Gòn trở lên cực kỳ lộn xộn và rối ren bởi hàng loạt các cuộc đảo chính khác nhau khiến Chương trình "Chiến tranh đặc biệt của Mỹ tại Việt Nam có nguy cơ sụp đổ. Chính Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara phải thừa nhận: "tình hình chính trị và quân sự (của Việt Nam Cộng hòa) ở miền Nam Việt Nam xấu đi nhanh chóng...Việt Nam Cộng hòa dường như đang trên bờ vực của sự sụp đổ hoàn toàn".7 Thậm chí tướng William Westmoreland còn tin rằng Quân lực Việt Nam Cộng hòa không còn đủ sức chiến đấu và chính quyền Sài Gòn sắp sụp đổ8

 

Để cứu nguy cho chính quyền Sài Gòn, Hoa Kỳ buộc phải tăng quân trên chiến trường và bắt đầu các hoạt động quân sự chống phá Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hoa Kỳ buộc phải dựng lên Sự kiện Vịnh Bắc Bộ để có cớ ném bom Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và leo thang chiến trang ở Việt Nam.9 Trong hai năm 1966-1967, tốc độ tăng quân của Hoa Kỳ đạt 13.000 lính/tháng, tới tháng 12-1967, quân số lính Mỹ đạt 497.498 quân, kết hợp với 60.276 lính quân đội các nước đồng minh của Mỹ (không tính lính Việt Nam Cộng hòa), nâng tổng quân số nước ngoài trên chiến trường Việt Nam đạt 557.774 lính và số lượng lính Việt Nam Cộng hòa đạt 634.475 lính, tăng 200.000 lính so với năm 1966.10 Tới ngày 31-03-1968, tổng quân số liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đạt 1.375.747 quân, gấp 4 lần quân số liên minh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam-Quân đội Nhân dân Việt Nam.11 Từ năm 1965, với số lượng quân và vũ khí tăng mạnh tới mức áp đảo, Mỹ bắt đầu thực hiện Chiến lược Tìm và diệt với hàng loạt trận càn nhằm vào khu vực nông thôn và căn cứ của Quân Giải phóng.

 

Anchor

 

1966-1967

Tới năm 1966, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã giành được hàng loạt chiến thắng như Trận Núi Thành, Tấn công sân bay Tân Sơn Nhất (1966),... Trước tình hình đó, Hoa Kỳ bắt đầu đề cập tới giải pháp đàm phán hòa bình. Tháng 1-1967, Tổng thống Johnson tuyên bố: "Hoa Kỳ sẵn sàng đi đến bất cứ đâu, bất cứ lúc nào để gặp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm bàn bạc về hòa bình." Sau đó, vào ngày 28-01-1967, Ngoại trưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Duy Trinh tuyên bố: "Nếu Hoa Kỳ thành thật có mong muốn hòa đàm, họ trước hết phải chấm dứt vô điều kiện các cuộc oanh tạc và các hành vi gây chiến chống miền Bắc."12 Tuy nhiên trên thực tế, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa vẫn có những hành động leo thang chiến tranh bằng Chiến dịch Cedar Falls, Chiến dịch Attleboro, Chiến dịch Junction City.

 

Riêng trong 03 tháng đầu năm 1967, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức 884 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên bao gồm 30 cuộc hành quân hỗn hợp, 738 cuộc do Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện và 146 cuộc do Hoa Kỳ và đồng minh nước ngoài thực hiện. Mục đích các cuộc hành quân là đánh thẳng vào các căn cứ và tiêu diệt lực lượng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tất cả các binh chủng của liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa được huy động tối đa. Trong 3 tháng đầu 1967, Không quân của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tiến hành 151.044 phi xuất (trong đó phi xuất hành quân là 30.231 cuộc) và 37.851 cuộc hải xuất. Riêng Boeing B-52 Stratofortress thực hiện 225 phi vụ với 1.743 phi xuất. Thực hiện oanh tạc và do thám miền Bắc với 5.759 cuộc với 14.582 phi xuất13

 

Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1967, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đã tổ chức 817 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên bao gồm 56 cuộc hành quân hỗn hợp Mỹ-Việt Nam Cộng hòa và 153 cuộc do Hoa Kỳ và đồng minh nước ngoài thực hiện. Không quân liên quân Mỹ-Việt Nam Cộng hòa tiến hành 176.970 phi xuất (tăng 25% so với 3 tháng đầu 1967) bao gồm 61.360 phi xuất hành quân (chiếm 34,6%), Boeing B-52 Stratofortress thực hiện 290 phi vụ với 1.878 phi xuất, oanh tạc và do thám miền Bắc là 9.144 lần với 22.213 phi xuất. Hải quân Việt Nam Cộng hòa thực hiện 22.912 hải xuất còn Hoa Kỳ là 14.254 hải xuất.14

 

Giai đoạn Đông-xuân 1967-1968 là lúc liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đẩy mạnh Chương trình Tìm-diệt, số lượng cuộc hành quân trong tháng 11-1967 đã bằng 41,7% số lượng các cuộc hành quân trong Quý II năm 1967. Trong toàn bộ năm 1967, Không quân Hoa Kỳ và các nước đồng minh thực hiện 175.830 phi xuất, Không quân Việt Nam Cộng hòa thực hiện 116.598 phi xuất, Boeing B-52 Stratofortress thực hiện 7.760 phi xuất. Hải quân Hoa Kỳ thực hiện 45.116 giang xuất và 24.466 hải xuất. Hải quân Việt Nam Cộng hòa thực hiện 42.052 giang xuất và tuần duyên (tăng 7% so với năm 1966).10

 

Đặc biệt, trong giai đoạn 1966-1967, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa bắt đầu sử dụng chất độc hóa học để khai quang các khu vực của Quân Giải phóng như Chiến khu C và D, Bời Lời, Hồ Bò. Trong đó loại R phá hủy 84.346 mẫu mùa màng, loại 20T khai quang được 5.382 km đường rừng, loại 20P khai quang được 263 căn cứ.15

 

Tuy nhiên, Chiến lược Tìm và diệt đã thất bại khi thương vong quá lớn, gây phẫn nỗ trong dư luận Hoa Kỳ và quốc tế. Riêng trong 6 tháng đầu 1967, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa mất 772 phi cơ.14

 

 

 

Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968-Bước ngoặt đưa tới bàn đàm phán

Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của Quân Giải phóng và nhân dân miền Nam đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phải bắt đầu quá trình xuống thang chiến tranh, phải chuyển hướng chiến lược “phi Mỹ hoá chiến tranh” rồi “Việt Nam hoá chiến tranh”, bắt đầu rút dần quân Mỹ về nước, chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, cử người đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hội nghị Pari.16

 

Tại Hoa Kỳ, cuộc chiến tại Việt Nam thực sự đã trở thành một cuộc chiến trong lòng Hoa Kỳ. Đây là mối quan tâm hành đầu của tất cả các chính khách Hoa Kỳ. Trong khi Tổng thống Johnson cương quyết bảo vệ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thì đã có 18 Nghị sĩ của Đảng Dân chủ đưa ra một bản tuyên bố chung, trong đó kêu gọi Hoa Kỳ tiến hành đàm phán với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.17

 

Trên trường quốc tế, uy tín của Mỹ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Làn sóng phản đối chiến tranh, đòi Mỹ ngồi vào bàn đàm phán tăng mạnh. Đặc biệt, đầu tháng 3-1968, Tổng thư ký Liên Hiệp quốc U.Thant kêu gọi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và coi đây là điều kiện để tổ chức đàm phán. Ngày 31-3-1968, Tổng thống Johnson phải tuyên bố: Đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra (90% lãnh thổ miền Bắc) và chấp nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng trang bị tối tân cho Việt Nam Cộng hòa và không rút quân Mỹ về nước.12

 

Ngày 02-04-1968, Nguyễn Văn Thiệu dưới sức ép của Mỹ đã đưa ra tuyên bố 4 điểm:12

 

Không chống lại các cuộc hạn chế oanh tạc, vì thiện chí hòa bình;

Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hai vai chính trong hòa đàm (thực tế là Mỹ và phái đoàn hỗn hợp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Cộng hòa miền Nam Việt Nam);

Việt Nam Cộng hòa cương quyết không đối thoại với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam;

Quân số Việt Nam Cộng hòa sẽ tăng thêm 135.000 quân trong năm 1968.

Nguyễn Văn Thiệu cũng nhấn mạnh: "lập trường của VNCH là không thỏa hiệp với Cộng sản dưới bất kỳ hình thức nào. Chính phủ Mỹ, chính sách Mỹ có thể thay đổi nhưng lập trường của VNCH là không bao giờ thay đổi...ngay tức khắc, không cần đợi đến mùa thu, chỉ trong vài tuần nữa, VNCH sẽ tổng động viên để chiến đấu"18 Tới ngày 03-04-1968, Thượng nghị viện Việt Nam Cộng hòa cũng ra tuyên cáo ủng hộ Hoa Kỳ ngừng ném bom miền Bắc.19

 

Ngày 05-04-1968, Hoa Kỳ triệu tập Hội nghị quân sự ở Honolulu gồm đại diện của các đồng minh nhưng không có đại diện của Việt Nam Cộng hòa để bàn về các giải pháp đối với chiến tranh ở Việt Nam. Điều này cho thấy sự lục đục trong nội bộ liên minh Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa.

 

Ngày 3-4-1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố: "Sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ nhằm xác định với Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện".20

 

Ngày 24-07-1968, để đánh gục ý chí của Hoa Kỳ, đặc biệt là sự trì hoãn thảo luận nghiêm túc của phía Hoa Kỳ, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định mở đợt tấn công thứ ba của Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Mục tiêu là gây tiêu hao tối đa cho đối phương về nhân lực, vũ khí, khí tài, đặc biệt là những loại hiện đại để đập tan mưu đồ xâm lược của Hoa Kỳ, tạo bước chuyển về cục diện trên bàn đàm phán và trên thực địa chiến trường miền Nam.12

 

Anchor

 

Hoa Kỳ trì hoãn đàm phán

Ngày 06-04-1968, Hoa Kỳ đề nghị Hội nghị hòa đàm sẽ diễn ra ở Genève (Thụy Sĩ) nhưng phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bổ và đưa ra đề nghị tổ chức hòa đàm ở Phnôm Pênh (Campuchia) hoặc một địa điểm khác có tính trung lập và thuận tiện cho cả hai bên. Để trì hoãn đàm phán tới thời điểm có lợi hơn trên chiến trường cho liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa, phía Hoa Kỳ lại bác bổ đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đưa ra đề nghị hội đàm tại Viêng Chăn (Lào) vào ngày 10-04-1968. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bác bỏ và đề nghị họp tại Vác-sa-va (Ba Lan) hoặc một thành phố khác ở Châu Á. Đồng thời, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa yêu cầu nội dung hòa đàm chỉ xoay quanh vấn đề ngừng ném bom và chấm dứt chiến sụ tại Việt Nam. Phía Hoa Kỳ bác bỏ và yêu cầu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải có hành động tương xứng với việc ngừng oanh tạc. Ngày 12-04-1968, Hoa Kỳ đưa ra danh sách 10 thành phố và 10 quốc gia có liên quan nhưng tuyệt nhiên không có Paris (Pháp) dù rằng trước đó Paris được Ngoại trưởng Pháp và Tổng thư ký LHQ U.Thant đề xuất.12 Tranh thủ khoảng thời gian trì hoàn đàm phán, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện 1.398 cuộc hành quân từ cấp tiểu đoàn trở lên (bằng 50% của năm 1967), số lượng phi xuất đạt 138.400 chuyến (bằng 47% của năm 1967), trong đó có 6.101 phi vụ oanh tạc miền Bắc và 39.396 hải xuất.21

 

Đây cũng là khoảng thời gian Đại sứ Mai Văn Bộ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có những tiếp xúc ngoại giao với Arthur Goldberg-Đại sứ của Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc thông qua trung gian là Tổng thư ký LHQ U.Thant. Các bên đã đi đến thống nhất là sẽ tổ chức hòa đàm tại Paris. Điều đặc biệt là ở chỗ toàn bộ quá trình thương lượng lựa chọn nội dung đàm phán và địa điểm đàm phán không có sự xuất hiện của Việt Nam Cộng hòa. Do phía Hoa Kỳ trì hoãn đàm phán quá lâu, nên Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam buộc phải tiến hành đợt tấn công thứ 2 trong Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968.12

 

Tới ngày 03-05-1968, Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra tuyên bố yêu cầu Hoa Kỳ nhanh chóng tiến hành đàm phán, đồng thời cử Ngoại trưởng Xuân Thủy làm trưởng đoàn đại diện của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị hoàn đàm. Bên cạnh đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng công khai quá trình thương lượng trong việc lựa chọn địa điểm đàm phán (vốn không có sự tham gia của Việt Nam Cộng hòa). Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng tuyên bố mốc 10-05-1968 sẽ là thời điểm khởi động đàm phán.22

 

Cũng trong ngày 03-05-1968, Tổng thống Hoa Kỳ Johnson chấp nhận đề nghị đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như thừa nhận quá trình thương lượng về địa điểm và nội dung đàm phán đã không có Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu cũng từng bước nhận ra Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đang gạt họ ra khỏi bàn đàm phán. Để được ngồi vào bàn đàm phán, Việt Nam Cộng hòa đã tìm mọi cách để hạ thấp uy tín của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Về ngoại giao, ngoài tăng cường tác động tới Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa đẩy mạnh huy động sự ủng hộ của các đồng minh khác như Úc, New Zealand, Thái Lan, Hàn Quốc, Philippines thậm chí cả Pháp để được tham gia Hội nghị và duy trì được lập trường của mình. Về quân sự, Việt Nam Cộng hòa đã không tiên liệu được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ đánh lớn trong tháng 5 (đợt 2 của Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968). Đặc biệt, một trong các giải pháp được Việt Nam Cộng hòa lựa chọn để ép Hoa Kỳ đồng ý cho tham gia hòa đàm là bắt bí (blackmail) bao gồm tuyên bố đơn phương hòa đàm với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng vẫn để ngỏ tham gia liên minh hòa đàm với Hoa Kỳ.23 Để vớt vát lại danh dự, Việt Nam Cộng hòa đưa ra tuyên bố cử Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Washington, Bùi Diễm làm trưởng phái đoàn liên lạc của Việt Nam Cộng hòa sang Paris để kịp ngày khai mạc Hội nghị.24

 

Anchor

 

Những phiên đàm phán đầu tiên không thể đạt tiến triển do sự thiếu thiện chí của Mỹ

Phiên họp sơ bộ ngày 10-05 có trọng tâm là ngôn ngữ đối thoại, thành phân và quốc tịch của các bên tham gia và thời gian cho phiên họp chính thức đầu tiên. Ngay trong phiên họp đầu tiên ngày 13-05, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra yêu cầu: Mỹ phải chấm dứt cuộc chiến tại Việt Nam, Mỹ phải ngừng ném bom miền Bắc vô điều kiện. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra lập trường 4 điểm và cương lĩnh đấu tranh của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam:

 

Xác nhận quyền dân tộc tự quyết của nhân dân Việt Nam

Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Đất nước Việt Nam chỉ tạm thời bị chia cắt để chờ Tổng tuyển cử để bầu chính quyền thống nhất cho cả hai miền

Công việc nội bộ của Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam quyết định

Công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam phải được thực hiện theo cương lĩnh đấu tranh của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Phía Hoa Kỳ đã không đề cập tới các vấn đề thống nhất từ trước mà đưa ra đòi hỏi về việc Tôn trọng khu phi quân sự ở Vỹ tuyến 17, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải xuống thang, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải cùng rút quân. Phái đoàn liên lạc của Việt Nam Cộng hòa đưa ra tuyên bố nếu Việt Nam Cộng hòa không được tham gia hòa đàm sẽ không có hòa bình.25

 

Ngày 15-05-1968, Ngoại trưởng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Xuân Thủy tuyên bố về lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:

 

Trước tiên, Mỹ phải chấm dứt vĩnh viễn và vô điều kiện việc ném bom và bắn phá trên toàn lãnh thổ miền Bắc (đặc biệt từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh)

Mỹ phải chấm dứt mọi hành động chiến tranh khác (rải truyền đơn, thả quà tâm lý và triển khai biệt kích ở miền Bắc...)

Mỹ phải thực hiện những yêu cầu nói trên mà không được đưa ra yêu sách với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Thực hiện những đòi hỏi trên sẽ được coi là thiện chí của Hoa Kỳ. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thiện chí của mình đã cử đại diện và tới đối thoại chính thức, nghiêm chỉnh với Mỹ ở Paris.26

 

Cũng trong ngày 15-05-1968, Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ Harriman tuyên bố nhất trí về việc vấn đề nội bộ của miền Nam do người miền Nam quyết định và thống nhất hai miền thông qua giải pháp hòa bình. Tuy nhiên tới phiên đàm phán thứ, ngày 19-06-1968, phái đoàn Hoa Kỳ lại tuyên bố sử dụng hiệp định Genève 1954 để thống nhất hai miền; khu phi quân sự Vỹ tuyến 17 được dùng để chia đôi Việt Nam thành 2 chính thể khác nhau. Do thái độ tránh né, không đi thẳng vào vấn đề của Hoa Kỳ nên Hội nghị không có tiến triển nào.27

 

Đặc biệt, nghỉ giải lao 15 phút giữa chừng đã thành lệ của Hội nghị từ phiên thứ 6 khi phía Hoa Kỳ để nghị nghỉ giải lao và mời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra phòng khác để nói chuyện thời tiết. Đây được coi là động thái làm trì hoãn Hội nghị của Hoa Kỳ nhằm đưa Hội nghị tới thời điểm có lợi hơn.28 Tới phiên họp thứ 10 ngày 26-06-1968, Ngoại trưởng Xuân Thủy chỉ trích mạnh mẽ thái độ không nghiêm túc đàm phán của Hoa Kỳ, âm mưu lợi dụng đàm phán để xuyên tạc Hiệp định Genève (1954) của Mỹ và để vạch trần ý đồ chia cắt Việt Nam thành 02 quốc gia riêng biệt khi lấp liếm tính tạm thời và tính quân sự của giới tuyến quân sự; ý đồ lợi dụng ngừng bắn để củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa và tấn công phi pháp Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam; ý đồ lợi dụng, thao túng sự giám sát quốc tế để chia cắt Việt Nam như trên bán đảo Triều Tiên. Ngoại trưởng Xuân Thủy cũng nêu lập trường của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam:

 

Thống nhất Việt Nam được tiến hành bằng phương pháp hòa bình, từng bước một, không có sự cưỡng bức của bên này với bên kia

Thực hiện quyền tự do đi lại, trao đổi thông tin, văn hóa và kinh tế giữa hai miền.

Để Hội nghị có tiến triển, Ngoại trưởng Xuân Thủy đề nghị:

 

Tất cả các bên, đặc biệt là Mỹ và VNCH không được xuyên táck và phá hoại Hiệp định Genève (1954)

Mỹ ngừng ném bom và chống phá miền Bắc vô điều kiện

Trong đàm phán, Mỹ phải đi thẳng vào vấn đề, không vòng vo

Mỹ cần chấm dứt ngay thủ đoạn bóp méo thực tế khi vẫn tiến hành các hành động leo thang chiến tranh trong khi vẫn tuyên truyền kêu gọi hòa bình29

14 phiên họp đầu tiên không có tiến triển do phía Mỹ liên tục lảnh tránh các vấn đề chính. Ngày 11-08-1968, Chính phủ Cách mạng Lào tuyên bố: "Việc nêu vấn đề của Lào tại Hội nghị Paris là bất hợp pháp, xâm phạm tới chủ quyền của Lào. Đồng thời chứng tỏ Hoa Kỳ đang bối rối trước áp lực của dư luận quốc tế đang lên án thái độ bướng bỉnh của Hoa Kỳ tại Hội nghị Paris cũng như trong cuộc chiên tranh xâm lược Việt Nam".30

 

Sau đợt tấn công thứ ba của Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, vào ngày 02-09-1968, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng tuyên bố việc Hoa Kỳ ngừng ném bom miền Bắc sẽ tạo ra những tác động tích cực trong việc từng bước một tìm ra một giải pháp chính trị cho miền Nam Việt Nam. Phát ngôn viên của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Thành Lê tuyên bố hai bên sẽ tiếp tục đàm phán nếu Hoa Kỳ ngừng ném bom miền Bắc.31

 

Sau những diễn biên căng thẳng trên chiến trường, trong tháng 9-1968 Tổng thư ký Liên hiệp Quốc U. Thant và Ngoại trưởng Pháp Michel Debré thúc giục cả hai bên cần ngồi vào bàn đàm phán ngay lập tức.32 Đặc biệt, ngày 23-09-1968, Tổng thư ký Liên hiệp Quốc U. Thant tuyên bố: "Một nghị quyết yêu cầu Hoa Kỳ ngừng oanh tạc miền Bắc có thể sẽ được đa số thành viên LHQ tán thành." Tuy nhiên, Đại sứ Hoa Kỳ tại LHQ George Ball tuyên bố: "đề nghị của U.Thant không giúp ích gì cho sự tiến triển của Hội nghị Paris."33

 

Anchor

 

Các hoạt động tăng cường quân sự của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa

Tuổi tổng động viên lính của Việt Nam Cộng hòa giảm xuống còn 18. Vào cuối năm 1968, quân số Việt Nam Cộng hòa vượt 80 vạn quân. Súng M16 được trang bị cho tất cả các tiểu đoàn chính quy bộ binh, nhảy dù, biệt động, thủy quân lục chiến. Tới năm 1968, Quân lực Việt Nam Cộng hòa hoàn thành trang bị M16 toàn quân. Về phía Hoa Kỳ, trong năm 1968, quân số Hoa Kỳ đã được tăng thêm 200.000 lính. Quân lực Việt Nam Cộng hòa được Mỹ đẩy mạnh trang thiết bị tối tân hơn và tăng cường nguồn tài chính.34 Trong tháng 7 và 8/1968, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện 1.929 cuộc hành quân cấp tiêu đoàn trở lên, 156.000 phi xuất, trong đó B52 tiến hành 6.922 phi vụ oanh tạc miền Bắc.35

 

Ngày 25-09-1968, Tổng thống Hoa Kỳ Jonhson tuyên bố: "Chúng tôi không có ý định giảm bớt quân số từ nay tới tháng 6-1969 hay bất kỳ một thời hạn nào khác trong tương lai."36

 

Ngày 01-10-1968, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa tiến hành Chiến dịch tâm lý chiến Nguyễn Trãi.37 Tới ngày 01-10-1968, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa tiến hành Chiến dịch Phụng Hoàng diễn ra từ 15-10-1968 đến hết Tết năm 1969 với mục tiêu: "Gây tổn hại cơ sở hạ tầng Việt Cộng nói chung nhưng đặc biệt chú trọng đến các cá nhân nằm trọng hệ thống của Việt Cộng theo thứ tự ưu tiên rõ rệt: Chính trị cao hơn quân sự."38

 

Ngày 01-11-1968 Tổng thống Hoa Kỳ Jonhson tuyên bố ngừng đánh phá miền Bắc đồng thời thông báo Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sẽ tham đàm phán từ ngày 06-11-1968.

 

Anchor

 

Các cuộc gặp bí mật bắt đầu diễn ra

Sau các cao điểm của đợt 2 và 3 của Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu xúc tiến các cuộc thương lượng bí mật. Cố vấn cao cấp Lê Đức Thọ bắt đầu trực tiếp tham gia đàm phán. Các cuộc gặp bí mật đã cho thấy tiên trình hòa đàm bắt đầu đi vào thực chất. Ngày 21-10-1968, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống nhất Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa sẽ cùng tham gia đàm phán. Tuy nhiên Nguyễn Văn Thiệu cực lực phản đối sự thỏa hiệp của Hoa Kỳ khi đồng ý cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tham gia đàm phán. Ngày 29-10-1968, Tổng thống Johnson gửi thư yêu cầu Thiệu chấp nhận thực tế đang diễn ra.39

 

Anchor

 

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa bắt đầu tham gia đàm phán

Nguyễn Văn Thiệu đã rất phẫn nộ với Hoa Kỳ khi nhận tin phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình dẫn đầu sẽ tới Paris dự hòa đàm. Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã gây sức ép với Hoa Kỳ khi tuyên bố Việt Nam Cộng hòa sẽ tiến hành đàm phán riêng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà không cần Hoa Kỳ tham gia.40 Ngày 02-11-1968, Nguyễn Văn Thiệu vẫn tuyên bố chỉ đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chứ không nói chuyện với Cộng hòa miền Nam Việt Nam, cương quyết không thành lập chính phủ liên hiệp tại miền Nam, cũng như tuyên bố cuộc đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ được tiến hành độc lập với cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.41 . Ngày 04-11-1968, phía Hoa Kỳ tiếp tục đưa ra lập trường cứng rắn, buộc chính quyền Sài Gòn phải chấp nhận Cộng hòa miền Nam Việt Nam sẽ tham gia đàm phán. Cùng ngày 04-11-1968, phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình dẫn đầu rời Moskva (Liên Xô) để sang Paris dự hòa đàm. Ngày 05-11-1968, Hoa Kỳ tuyên bố hoãn họp do phía Việt Nam Cộng hòa thiếu thiện chí trong việc tham gia hòa đàm.

 

Sau khi Richard Nixon đắc cử Tổng thống ngày 06-11-1968, Nguyễn Văn Thiệu đưa ra công thức đàm phán mới trong đó đàm phán sẽ có hai bên gồm liên minh Việt Nam Cộng hòa-Hoa Kỳ và liên minh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Cộng hòa miền Nam Việt Nam; trong đó Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ đứng đầu mỗi bên, Hoa Kỳ và Cộng hòa miền Nam Việt Nam chỉ tham gia với tư cách một phần của mỗi phái đoàn.42 Sau phiên họp thu hẹp, không công khai giứa Nguyễn Văn Thiệu và một số thành viên chủ chốt trong Thượng viện Việt Nam Cộng hòa ngày 30-11-196843 để gây sức ép buộc toàn bộ lưỡng viện Quốc hội Việt Nam Cộng hòa chấp nhận để chính quyền Sài Gòn tham gia đàm phán thì tới ngày 04-12-1968, Quốc hội Việt Nam Cộng hòa thông qua quyết định chính quyền Sài Gòn sẽ tham gia đàm phán.44 . Ngày 07-12-1968, Nguyễn Văn Thiệu cử Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa là Phạm Đăng Lâm làm trưởng đoàn, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ làm cố vấn.

 

Khoảng thời gian từ 07-12-1968 tới 15-01-1968, bốn bên tham gia đàm phán tiến hành thảo luận các yếu tố mang tính kỹ thuật và thủ tục. Lập trường của các bên có sự khác nhau rõ rệt trong giai đoạn này. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam muốn mọi hình thức đều phải thể hiện là đàm phán 04 bên trong khi phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa muốn thể hiện là đàm phán hai bên. Đặc biệt liên quan tới chiếc bàn của Hội nghị, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề xuất bàn hình thoi, bàn hình vuông hoặc bàn tròn chia 4. Phía Hoa Kỳ đề xuất bàn hình bầu dục cắt dọc đôi và bàn hình tròn cắt đôi.45 Cuối cùng, các bên lựa chọn phương án của Đại sứ Liên Xô tại Pháp đó là Sẽ là một bàn tròn phẳng lì, có hai bàn chữ nhật kê cách bàn tròn 0,45 mét đặt ở hai điểm đối diện nhau, dành cho thư ký; không có cờ và biển của các đoàn trên bàn đàm phán; quyết phát biểu trước được quyết định bởi rút thăm (tuy nhiên để đẩy nhanh đàm phán phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam đồng ý để Hoa Kỳ phát biểu trước).46 . Trong khi rút thăm, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam cương quyết phải có sự tham gia của Cộng hòa miền Nam Việt Nam.47 Ngày 04-01-1969, phía Việt Nam Cộng hòa chấp nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam sẽ có 02 phát ngôn viên của mỗi bên.48 Cùng thời điểm này, phía Hoa Kỳ cử Henry Kissinger làm cố vấn. Trong chính giới Hoa Kỳ, nhiều người đã gây sức ép để Cộng hòa miền Nam Việt Nam có vị thế ngang với Việt Nam Cộng hòa để đàm phán có tiến triển.49 .

 

Ngày 16-01-1969, chính quyền Sài Gòn tuyên bố hòa đàm sẽ diễn ra vào 10h30' ngày 18-01-1969 với sự tham gia của 04 bên bao gồm Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam.50 . Phiên họp ngày 18-01-1969 thống nhất về ngôn ngữ, bố trí chỗ ngồi, báo chí được phép vào 15 phút đầu, các bên được phép ghi âm buổi thảo luận, không được mang máy quay vào phòng họp, 04 đoàn phát biểu lần lượt.51

 

Anchor

 

Sách lược ngoại giao "tuy hai mà một, tuy một mà hai" của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã vận dụng sách lược "Tuy hai mà một, tuy một mà hai" để tiến hành đàm phán. Ðây là một sách lược ngoại giao lớn, chỉ rõ nét đặc thù và mối quan hệ phân công và phối hợp giữa ngoại giao miền Bắc và ngoại giao miền Nam trong nền ngoại giao thống nhất của Việt Nam nói chung thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sách lược đó nhằm đề cao vị trí, vai trò và tính độc lập của Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tập hợp thêm lực lượng và các xu hướng khác nhau ở trong nước và trên thế giới. Sách lược ngoại giao ấy về thời gian được vận dụng trước, trong và cả sau Hội nghị Paris; về không gian, không chỉ thể hiện tại bàn đàm phán Paris mà cả trên nhiều diễn đàn khác, ở nhiều địa bàn quốc gia và dân tộc, nhiều tổ chức chính trị, xã hội quốc tế có quan hệ với vấn đề Việt Nam. Người đề xướng sách lược ngoại giao đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ ngoại giao lần thứ năm; ngày 16-3-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Bây giờ, ngoại giao của ta vừa là một mà lại là hai, vừa là hai mà lại là một. Ta vừa có ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vừa có ngoại giao của Mặt trận Dân tộc giải phóng. Hai cái vừa là hai mà lại vừa là một, vừa là một mà lại vừa là hai. Hai khối đó phải kết hợp chặt chẽ với nhau".

 

Trước mắt thế giới, không ai không nhận thấy rằng lập trường và các kiến nghị về giải pháp do hai đoàn miền bắc và miền nam đưa ra tại Hội nghị từ lúc mở đầu đến khi kết thúc đều có chung một tiếng nói. Song cũng không ai không nhận thấy rằng đó là lập trường và kiến nghị về giải pháp của hai đại diện của nhân dân Việt Nam có vị trí khác nhau. Sách lược này có nguồn gốc thực tế lịch sử là Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất sau Cách mạng Tháng Tám nhưng đã bị tạm chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự từ Hiệp định Geneva 1954.52

 

Anchor

 

Các cuộc thảo luận không đạt được tiến triển do lập trường các bên quá khác biệt

Tới tháng 5-1969, Hội nghị 04 bên đã trải qua 14 phiên tranh luận nhưng không đạt được tiến triển. Ngày 08-05-1969, phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam tạo ra đột phá khi đưa ra "giải pháp hòa bình 10 điểm":

 

Tôn trọng các quyền dân tộc, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được quy định trong Hiệp định Genève 1954 về Việt Nam

Quân đội Hoa Kỳ và quân đội nước ngoài thuộc phe Hoa Kỳ phải rút hoàn toàn khỏi Việt Nam, hủy bỏ các căn cứ của Hoa Kỳ tại Việt Nam

Vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam sẽ do các bên ở Việt Nam giải quyết

Nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết công việc nội bộ của mình, tự quyết định chế độ chính trị tại miền Nam Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do, bầu quốc hội lập hiến và chính phủ liên hiệp

Miên Nam Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại trung lập, hòa bình, công nhận chủ quyền và biên giới của Campuchia và Lào. Lập quân hệ ngoại giao với cả Hoa Kỳ. Sẵn sàng tiếp nhận viện trợ kinh tế, kỹ thuật của mọi quốc gia không kèm theo điều kiện chính trị ràng buộc

Việc thống nhấ Việt Nam được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình. Trong khi chờ thống nhất, hai miền tái lập quan hệ bình thường, giới tuyến quân sự giữa 2 miền tại vỹ tuyến 17 chỉ có tính chất tạm thời.

Trong khi chờ thống nhất, hai miền Việt Nam không được thiết lập liên minh quân sự với bất kỳ quốc gia nào

Hai bên sẽ thương thảo về việc trao trả tù binh

Các bên thỏa thuận về một sự giám sát quốc tế đối với việc rút quân đội Hoa Kỳ và đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam

Tất cả các phe phái sẽ thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời. Trong đó, chính phủ này có nhiệm vụ:

Thi hành các hiệp định liên quan tới việc rút quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam

Thực hiện hòa hợp dân tộc, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp xã hội và các đường lối chính trị

Tổ chức Tổng tuyển cử trên toàn miền Nam Việt Nam để thực hiện quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam53

Tuy nhiên, Hội nghị lại lâm vào bế tắc khi Hoa Kỳ ngày 14-05-1969 đưa ra đề xuất 08 điểm, trong đó điểm gây mâu thuẫn chính là tiếp tục quan điểm cố hữu rằng tất cả các lực lượng không thuộc miền Nam Việt Nam đều phải rút quân. Việc buộc Hoa Kỳ tự nguyện rút quân và không tái triển khai lực lượng ở miền Nam Việt Nam lúc đó là rất khó xảy ra.

 

Ngày 10-06-1969, phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam cử Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình thay thế ông Trần Bửu Kiếm làm trưởng đoàn. Ông Trần Bửu Kiếm trở thành Bộ trưởng Phủ Chủ tịch Chính phủ của Cộng hòa miền Nam Việt Nam.54 Trong phiên họp ngày 12-06-1969, ông Hà Văn Lâu tuyên bố: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận Cộng hòa miền Nam Việt Nam là người đại diện duy nhất và hợp pháp cho nhân dân miền Nam. Sau đó, 23 quốc gia công nhận và 21 quốc gia đặt quan hệ ngoại giao với Cộng hòa miền Nam Việt Nam.55

 

Tỷ lệ người ủng hộ cuộc chiến tại Việt Nam trong người dân Hoa Kỳ giảm từ mức 78% vào năm 1966 còn 32% vào năm 196956 đã gây áp lực lớn lên phái đoàn Hoa Kỳ. Để giám áp lực, chính quyền Nixon công bố chương trình "Việt Nam hóa chiến tranh". Trên mặt trận ngoại giao, Hoa Kỳ bắt đầu có những động thái xích lại với Trung Quốc để cô lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hậu quả là, trong năm 1969, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ co cụm phòng thủ, vùng giải phóng bị thu hẹp. Tới tháng 6-1969, Hoa Kỳ lại chiếm ưu thế trên bàn đàm phán và gây sức ép lên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngày 20-07-1969, Ngoại trưởng Xuân Thủy yêu cầu Hoa Kỳ rút toàn bộ quân chứ không rút nhỏ giọt 25.000 quân/lần.57

 

Phát biểu tại phiên họp thứ 26 ngày 17-07-1969, Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình đáp trả đề xuất tổng tuyển cử do chính quyền Sài Gòn tổ chức của phái đoàn Việt Nam Cộng hòa: "Tổng tuyển cử tổ chức dưới họng súng của quân viễn chinh Hoa Kỳ và quân ngụy trong điều kiện đối phương (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) phải hạ vũ khí tất nhiên sẽ chỉ đưa đến kết quả là củng cố chính quyền tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam...Một cuộc tổng tuyển cử tự do, dân chủ thực sự chỉ có thể tiến hành trong điều kiện không có mặt quân xâm lược Mỹ, không đặt dưới quyền kiểm soát của chính quyền và quân đội tay sai của Mỹ."58 Sau khi tiến hành đảo chính chính quyền trung lập tại Campuchia vào tháng 3-1970, liên quân Hoa Kỳ-Việt Nam Cộng hòa tiến hành xâm lược Campuchia vào 29-04-197059 để gây áp lực lực buộc chính quyền Lon Nol không đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa60 Riêng Chiến dịch Phụng Hoàng trong năm 1969 đã khiến 6.000 người bị giết công khai, 1.200 người bị ám sát và 15.000 người bị thương.

 

Tháng 8-1969, cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn Henry Kissinger bắt đầu đối thoại trực tiếp. Vấn đề tù binh Hoa Kỳ bắt đầu được nêu ra từ cuối năm 1969.58 Thời gian sau đó, với thế thượng phong trên thực địa, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa sử dụng chiến thuật lảng tránh trong các vấn đề chính nhằm chờ tới thời điểm đánh gục hoàn toàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ đi đến kết thúc đàm phán. Phía Hoa Kỳ xé lẻ các phiên thảo luận, chỉ đưa ra 1 vấn đề/phiên thảo luận mà không đi vào các nội dung cốt lõi. Trước áp lực của dư luận Hoa Kỳ, phái đoàn Hoa Kỳ đã nhiều lần đề nghị họp kín, không công khai thông tin cho báo chí. Để phản đối hành động của Hoa Kỳ, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tẩy chay 35 phiên họp (từ phiên thứ 46 ngày 11-12-1969 tới phiên thứ 82 ngày 03-09-1970), phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam tảy chay 33 phiên họp liên tiếp (từ phiên 49 ngày 08-01-1970 tới phiên thứ 84 ngày 17-09-1970). Hội nghị trong năm 1970 rơi vào tình trạng hoàn toàn bế tắc.61

 

Ngày 21 và 22-11-1970, Hoa Kỳ tiến hành oanh tạc miền Bắc sau khi phía Cộng hòa miền Nam Việt Nam bác bỏ 2 đề xuất của Hoa Kỳ bao gồm: 1. ngừng bắn tại chỗ nhưng không dừng chiến tranh; 2. mở rộng Hội nghị với sự tham gia của các phe phái tại Lào và Campuchia. Phía Cộng hòa miền Nam Việt Nam bác bỏ do cho rằng đây là một thủ đoạn tranh cử của Tổng thống Nixon khi Hoa Kỳ ngừng bắn nhưng Việt Nam Cộng hòa thì không cũng như việc mở rộng Hội nghị sẽ làm gia tăng phức tạp tình hình, kéo dài chiến tranh cũng như độc lập, chủ quyền của Lào, Campuchia không được tôn trọng.62 Ngày 17-12-1970, Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình của Cộng hòa miền Nam Việt Nam đưa ra tuyên bố 3 điểm:

 

Sẽ tiến hành ngừng bắn với cả Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa

Để có ngừng bắn thực sự thì Hoa Kỳ và các nước đồng minh phải rút toàn bộ quân đội, nhân viên quân sự khỏi miền Nam Việt Nam. Quá trình rút quân sẽ hoàn thành vào 30-6-1971. Sẽ có ngừng bắn với Việt Nam Cộng hòa sau khi chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 03 lực lượng chính trị được thành lập nhằm tổ chức Tổng tuyển cử

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ tự nguyện ngừng bắn dịp Noel 1970, Tết Dương lịch 1971 và Nguyên Đán Tân Hợi.

Sau đó,



Tin liên quan


Quan hệ Việt Nam - Cuba  là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Cuba. Quan hệ ngoại giao hai nước được...
Quan hệ Việt Nam - Campuchia  là mối quan hệ song phương giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia. Nó đã trở...
Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga  (tiếng Nga:  Российско-вьетнамские отношения ) là quan hệ giữa Việt Nam và Nga, kế thừa quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng...
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc  ( Quan hệ Việt Trung ) là chủ đề nóng bỏng trong hơn 4.000 năm lịch sử của Việt Nam, cho dù thời đại nào và chế độ...
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 vấn đề  bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ  được đặt ra. Tuy nhiên đến hai mươi năm sau, ngày 11...
Sau hai mươi năm gián đoạn kể từ khi kết thúc chiến tranh, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố chính thức  bình thường hóa quan hệ ngoại giao...
Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn  phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa triều đình nhà Nguyễn với các quốc gia láng giềng và phương Tây...
Nước Đại Việt dưới  triều đại Tây Sơn , có  quan hệ ngoại giao  với các nước Xiêm La và Trung Quốc ở triều Mãn Thanh. Nguyễn...
Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc  phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa  nhà Mạc  ở Việt Nam với  nhà Minh  của Trung...
Ngoại giao Việt Nam thời Mạc  phản ánh những hoạt động ngoại giao dưới triều đại  nhà Mạc  ở Đại Việt trong thời kỳ chính thức (1527-1592) và...