Lịch sử Việt Nam
Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp kết thúc
Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp kết thúc

I- Âm mưu mới của đế quốc Pháp - Mĩ ở Đông Dương.

Kế hoạch Nava Sau gần tám năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1945 -1953), thực dân Pháp đã phải chịu những tổn thất rất nặng nề: Khoảng 390.000 quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, không kể hàng chục vạn quân viễn chinh đang bị giam chân trên chiến trường Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam; tiêu tốn khoảng 2.130 tỉ phrăng. Vùng kiểm soát của chúng ngày càng bị thu hẹp. Trên chiến trường Việt Nam, quân Pháp ngày càng bị lún sâu vào thế bị động phòng ngự và thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược mạnh để có thể đối phó với các cuộc tấn cồng mới của bộ đội ta.

 

Tình hình chính trị, xã hội ở nước Pháp ngày càng thêm rối ren, phức tạp. Tình trạng kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương đã làm cho các tầng lớp nhân dân Pháp thêm khốn khổ vì phải nai lưng gánh chịu nạn tăng thuế và binh dịch.

 

Cũng do đó phong trào đòi chấm dứt chiến tranh Đông Dương ngày càng lan rộng. Mâu thuẫn nội bộ giới cầm quyền Pháp ngày càng gay gắt. Chỉ trong vòng tám năm tiến hành chiến tranh Đông Dương, Chính phủ Pháp đã phải thay đổi tới 18 lần.

 

Chính phủ do Rơnê Maye đứng đầu, mới được dựng lên chưa đấy 4 tháng đã phải cùng chung số phận của 17 chính phủ trước.

 

Nước Pháp lại rơi vào cuộc khủng hoảng nội các kéo dài hơn một tháng.

 

Trước tình hình trên, giới cầm quyền hiếu chiến Pháp chủ trương dựa vào sự viện trợ của Mĩ nhiều hơn để tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, cố giành một thắng lợi quyết định về quân sự trên chiến trường hi vọng tìm ra "lối thoát trong danh dự”.

 

Về phía đế quốc Mĩ, từ lâu chúng đã có dã tâm thay chân Pháp để độc chiếm Đông Dương, biến các nước Đông Dương thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Tuy nhiên, trước mắt tình hình thế giới và quan hệ quốc tế chưa cho phép Mĩ thực hiện ý đồ này. Vì vậy, nhân lúc thực dân Pháp đang bị sa lầy và có nguy cơ thất bại hoàn toàn, đế quốc Mĩ đẩy mạnh can thiệp ngày càng sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương bằng cách tăng cường viện trợ quân sự để buộc Pháp phải kéo dài, mở rộng và quốc tế hoá cuộc chiến tranh. Chính Aixenhao đã nhiều lần tuyên bố, quyết không để cho chủ nghĩa cộng sản quốc tế tiến thêm một bước nào ở Đông Nam Á, đặc biệt ở Đông Dương, nơi được coi là có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Đế quốc Mĩ thường xuyên gây áp lực đối với thực dân Pháp, yêu cầu thực dân Pháp phải có những cố gắng chiến tranh mới, đồng thời tích cực chuẩn bị để thay thế Pháp. Đi đôi với việc tăng cường viện trợ về mọi mặt cho Pháp, đế quốc Mĩ đã buộc Pháp phải trao trả quyền "độc lập”, cho các chính phủ bù nhìn, tạo điều kiện cho Mĩ có thể nắm trực tiếp các chính phủ này. Viện trợ quân sự của Mĩ vào năm 1953 hằng tháng lên tới trên 2 vạn tấn, có tháng lên đến 4 vạn tấn. Chúng còn đưa hàng trăm nhân viên quân sự. cử một phái đoàn quân sự để kiểm soát thực dân Pháp và các chính quyền bù nhìn, ngày càng trực tiếp tham gia vào việc điều khiển chiến tranh ở Đông Dương 1.

 

Được sự thoả thuận của Mĩ, ngày 7-5-1953, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Hăngri Nava (Henri Navarre), đang giữ chức Tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương, sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh.

 

Nava nhận định rằng, một thiếu sót cơ bản trong sự lãnh đạo chiến tranh của Chính phủ Pháp là không xác định được rõ ràng mục đích của cuộc chiến tranh và đó là nguyên nhân chính làm cho tinh thần của quân đội viễn chinh ngày càng sút kém, quân ngụy ngày càng không có tinh thần chiến đấu. Do đó, theo Nava thì một mặt Chính phủ Pháp cần xác định chủ trương của mình là tiến hành chiến tranh để bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của Pháp ở Đông Dương, mặt khác phải mạnh dạn thừa nhận quyền "độc lập" của các quốc gia liên kết trong khối liên hiệp Pháp.

 

Đồng thời, cần chỉ rõ cho các quốc gia này nhận thấy rằng họ chỉ giành được "độc lập" thực sự khi nào đánh bại được quân đội nhân dân Việt Nam, nên cần phải động viên toàn lực chiến đấu để giành chiến thắng.

 

Về tổ chức chỉ đạo chiến tranh, Nava nhận định rằng, do liên tiếp xảy ra khủng hoảng nội các và thường xuyên thay đổi tướng tá chỉ huy ở Đông Dương, nên Chính phủ Pháp thiếu hẳn một sự lãnh đạo chặt chẽ, thống nhất; trong khi về phía Việt Nam có "vị lãnh tụ chính trị duy nhất là Hồ Chí Minh và vị lãnh tụ quân sự duy nhất là Võ Nguyên Giáp, là những người suốt 7 năm nay đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh..." 1.

 

Về quân sự, Nava cho rằng, tình hình chiến sự ngày càng bất lợi cho quân đội viễn chinh. Trong khi quân đội nhân dân Việt Nam ngày một trưởng thành, có tính cơ động cao thì quân đội viễn chinh ngày càng lâm vào tình trạng phân tán và bị động.

 

Phần lớn lực lượng đều bị bó chân làm nhiệm vụ phòng ngự trong hàng nghìn đồn bốt rải khắp các chiến trường, thiếu hẳn một khối cơ động chiến lược mạnh để đối phó với các cuộc tiến công của đối phương. Theo Nava, cần phải cải biến tình thế đó bằng cách xây dựng một quân đội ngụy lớn mạnh để giải quyết vấn đề quân số, thành lập gấp rút một lực lượng cơ động chiến lược mạnh.

 

Từ những nhận định nói trên, Nava vạch ra một kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng sẽ giành một thắng lợi quyết định về quân sự, xoay chuyển tình thế cuộc chiến tranh Đông Dương, chuyển bại thành thắng. Về tác chiến, Kế hoạch Nava thực hiện theo hai bước: - Bước thứ nhất: Từ thu - đông 1953 đến mùa xuân 1954, Nava chủ trương tránh giao chiến với chủ lực của ta, giữ thế phòng ngự chiến lược trên chiến trường phía bắc vĩ tuyến 18; thực hiện tiến công chiến lược ở phía nam vĩ tuyến 18 nhằm bình định miền Trung và miền Nam Đông Dương, đặc biệt là tiến công chiếm đóng vùng tự do Liên khu V.

 

- Bước thứ hai: Từ thu - đông 1954, sau khi nắm trong tay ưu thế về lực lượng cơ động, Nava chủ trương chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quyết định về quân sự, buộc ta phải chấp nhận những điều kiện chính trị do chúng đưa ra.

 

Để có đủ điều kiện cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch đã vạch ra, Nava chủ trương giải quyết theo ba biện pháp: mở rộng ngụy quân, mở rộng các "quân đội quốc gia" trên quy mô lớn; rút bớt một bộ phận lực lượng chiếm đóng để tập trung lại; xin tăng viện từ Pháp sang.

 

Chính sách "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" là một chính sách thâm độc mà ngay từ đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, các tướng tá Pháp đã thực hiện. Nava tiếp tục thực hiện chính sách này với một quy mô rộng lớn hơn và với một tinh thần kiên quyết hơn. Dựa vào viện trợ Mĩ, Nava dự định tổ chức ngay trong năm 1953

 

một lực lượng quân ngụy mới gồm 54 tiểu đoàn và sang năm 1954 sẽ tăng lên 108 tiểu đoàn. Như vậy, số quân ngụy từ khoảng 20 vạn tăng lên 29 vạn, không kể số quân ngụy trong quân đội viễn chinh 1.

 

Cùng với việc thở rộng ngụy quân, Nava chủ trương nhanh chóng tổ chức một lực lượng cơ động mạnh để có đủ sức đánh bại những đòn tiến công trước mắt của quân đội ta và sau đó chuyển sang tiến công tiêu diệt chủ lực của ta. Nava dự kiến trong năm 1953 và năm 1954 xây dựng 7 sư đoàn cơ động, trong đó có 6 sư đoàn lục quân, 1 sư đoàn quân nhảy dù, gồm tất cả 27

 

binh đoàn cơ động 2. Kế hoạch quân sự Nava được Hội đồng quốc phòng Pháp tán thành và thông qua tháng 7-1953. Đó là một kế hoạch chiến lược có quy mô rộng lớn, thể hiện sự nỗ lực lớn nhất và cuối cùng của tập đoàn đế quốc Pháp - Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Dư luận chính giới Pháp và Mĩ đều đánh giá cao kế hoạch Nava. Thủ tướng Lanien tuyên bố trên diễn đàn Quốc hội Pháp (22-10-1953): “Kế hoạch Nava chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mĩ cũng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ mọi điều” 2.

 

Ngoại trưởng Mĩ Đalét cũng khẳng định: "Kế hoạch Nava trong hai năm tới nếu không phải là một thắng lợi hoàn toàn thì ít nhất cũng thu được kết quả nhất định về quân sự” 1.

 

Ngay sau khi Kế hoạch Nava được thông qua, Chính phủ Pháp quyết định gấp rút điều quân để tăng viện cho chiến trường Đông Dương. Chính phủ Mĩ cũng sử dụng 400 triệu đảm để tổ chức quân ngụy ở Việt Nam, quyết định tăng thêm viện trợ quân sự cho Pháp (năm 1953 là 650 triệu đôla và năm 1954 là 1.264

 

triệu đôla, chiếm 73% chi phí chiến tranh Đông Dương); đồng thời cung cấp thêm trang bị cho nhiều tiểu đoàn và trung đoàn pháo binh, cơ giới, vận tải, tăng thêm 123 máy bay và 212 tàu chiến các loại 2. Các phái đoàn quân sự Mĩ liên tiếp sang Đông Dương làm nhiệm vụ đốc thúc, giám sát việc thực hiện kế hoạch.

 

Để thực hiện kế hoạch, Nava đã quyết định rút các lực lượng Âu - Phi tinh nhuệ ở một số vị trí về tập trung lại, mặt khác đề nghị Chính phủ Pháp tăng viện 2 sư đoàn, nhưng chỉ được chấp nhận 12 tiểu đoàn bộ binh rút từ Pháp, Bắc Phi, Nam Triều Tiên sang; đồng thời tăng cường bắt lính để phát triển ngụy quân.

 

Ngay từ cuối tháng 5-1953, khi Nava sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy, trên chiến trường Đông Dương liên tục diễn ra các cuộc hành quân "có tính chất tiến công" của địch nhằm càn quét vùng địch hậu hoặc quấy rối hậu phương của ta.

 

Trong thời gian từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 7-1953, những cuộc càn quét của địch diễn ra liên miên ở các tỉnh Nám Bộ, Bình - Trị - Thiên, đồng bằng Bắc Bộ ... Trong những cuộc càn quét này, địch huy động lực lượng rất mạnh, có khi tới hàng chục tiểu đoàn bộ binh, có pháo binh và không quân yểm trợ; điển hình là các trận càn quét lớn ở Bình - Trị - Thiên, vùng Hải Hậu tỉnh Nam Định, vùng sông Luộc tỉnh Thái Bình. Chúng tàn sát nhân dân, vây bắt thanh niên, dồn dân vào các khu tập trung để tiện bề kiểm soát. Chúng ra sức đánh phá các căn cứ du kích, phá hoại kinh tế, phá hoại lực lượng dự trữ của ta. Một số nơi (Nam Bộ) do mắc sai lầm hữu khuynh, nên hoạt động vũ trang của ta ở các vùng tạm bị chiếm và vùng du kích bị giảm sút rõ rệt. Những sai lầm này được kịp thời uốn nắn, nên tình hình được cải thiện dần. Ở các nơi khác, tuy giặc Pháp đặt thêm được một số vị trí nhỏ nhằm kiểm soát chặt hơn các trục đường giao thông thủy, bộ và bắt thanh niên vào lính, nhưng vẫn không cải thiện được thế chiếm đóng của chúng; các khu du kích vẫn đứng vững và ngày càng mở rộng.

 

Tại Việt Bắc, từ giữa tháng 7-1953, địch tiến hành cuộc hành quân đổ bộ đường không chớp nhoáng theo kiểu biệt kích, mang tên chiến dịch Chim én. Ngày 17-7, địch thả 3 tiểu đoàn dù xuống một địa điểm nhỏ hẹp ở phía bắc thị xã Lạng Sơn, nhằm phá hủy các hang động chứa vũ khí của ta. Vừa đặt chân tới mặt đất, chưa kịp triển khai đội hình, quân địch đã bị ta chặn đánh quyết liệt, nên chỉ kịp đặt các gói thuốc nổ phía ngoài cửa hang rồi rút chạy về hướng Tiên Yên. Tại Tây Bắc, trong tháng 6 và tháng 7, địch tăng cường hoạt động gián điệp, thả biệt kích, mở rộng những vùng thổ phỉ ở các khu vực gần Lào Cai, Lai Châu và nhất là Sơn La. Tháng 8-1953, địch rút toàn bộ binh lực ở Nà Sản về tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ.

 

Tháng 10-1953, địch huy động 6 binh đoàn cơ động mở cuộc tấn công lớn vào vùng Nam Ninh Bình, uy hiếp vùng tự do Thanh Hoá, nhằm phá kế hoạch tiến công của ta.

 

Với những hoạt động tích cực, trên thực tế thực dân Pháp đã thực hiện được một phần trong Kế hoạch Nava. Đến cuối năm 1953, chúng đã lập được 54 tiểu đoàn ngụy quân; đồng thời xây dựng được 84 tiểu đoàn quân cơ động; trong đó có 44 tiểu đoàn được tập trung tại đồng bằng Bắc Bộ. Như vậy, nếu tính cả lực lượng chiếm đóng, tại đồng bằng Bắc Bộ, địch có tất cả là 112

 

tiểu đoàn. Bằng việc tập trung khối quân cơ động lớn tại đồng bằng Bắc Bộ - nơi đông dân, nhiều của, được coi là then cửa Đông Dương, Nava hi vọng thu hút chủ lực của ta về đó để tiêu diệt.

 

II- Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ

Anchor

 

1. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954

Đứng trước âm mưu và hành động mới của Pháp - Mĩ , Bộ Chính trị Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị tháng 9-1953, đề ra chủ trương chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954. Với quyết tâm giữ vững thế chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp hoạt động trên phạm vi cả nước và toàn Đông Dương, Hội nghị xác định phương hướng chiến lược của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954 là: - Tập trung phần lớn bộ đội chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ.

 

Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch; đồng thời tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích ở các vùng tự do để cho bộ đội chủ lực chủ động đánh địch theo kế hoạch đã định. Do hành động của địch chưa rõ rệt, Hội nghị Bộ Chính trị nêu lên phương châm tác chiến chung là "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", "Đánh ăn chắc" (chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh).

 

Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị, trong Đông - Xuân 1953 - 1954, quân đội ta chủ động mở một loạt chiến dịch tiến công địch trên khắp các chiến trường Đông Dương.

 

Vào trung tuần tháng 11-1953, một đơn vị chủ lực của ta bắt đầu tiến lên Tây Bắc, hướng chính là Lai Châu; một đơn vị khác vượt qua rừng núi Trường Sơn, tiến sang Trung Lào phối hợp cùng với bạn chuẩn bị đánh địch.

 

Phát hiện sự di chuyển của quân ta lên Tây Bắc, ngày 20-11- 1953, Nava cho 6 tiểu đoàn lính Âu - Phi tinh nhuệ nhảy dù xuống chiếm đóng Điện Biên Phủ (chiến dịch Casto). Bằng hành động này, thực dân Pháp nhằm bảo vệ chiến trường Tây Bắc, Thượng Lào và phá kế hoạch tiến công của ta.

 

Ngày 10-12-1953, quân ta mở cuộc tiến công vào thị xã Lai Châu; một bộ phận khác tiến xuống bao vây Điện Biên Phủ.

 

Qua 10 ngày chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ khu vực Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía bắc. Thực dân Pháp buộc phải rút bớt 6 tiểu đoàn quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ lên xây dựng Điện Biên Phủ thành nơi tập trung binh lực thứ hai. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản. Đầu tháng 12-1953, phối hợp với bộ đội Pathét Lào, quân ta mở chiến dịch ở Trung Lào, loại khỏi vòng chiến đấu 3 tiểu đoàn Âu - Phi, giải phóng tỉnh Thà Khẹt, uy hiếp căn cứ Xênô (Xavanakhẹt). Địch buộc phải điều quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác tăng cường cho Xênô. Từ đó, Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của quân Pháp.

 

Thừa thắng, một đơn vị nhờ của bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội Pathét Lào men theo dãy Trường Sơn, tiến công xuống Hạ Lào; giải phóng thị xã Atôpơ và toàn bộ cao nguyên Bôlôven; sau đó phối hợp với quân giải phóng Campuchia, giải phóng Vươnsai và Xiêmpang, uy hiếp Tungstreng, nối liền khu du kích Đông Bắc Campuchia với căn cứ Hạ Lào.

 

Mặc dù bị quân ta đánh ở nhiều nơi, nhưng Nava vẫn chủ quan cho rằng "sức Việt Minh đã tàn". Vì vậy, ngày 20-1-1954, Nava tập trung 20 tiểu đoàn bộ binh mở chiến dịch quảng tấn công vào Tuy Hoà (Phú Yên) nhằm đánh chiếm toàn bộ vùng tự do của ta ở Liên khu V theo kế hoạch dã định.

 

Thực hiện phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt, bộ đội ta mở cuộc tiến công địch lên Tây Nguyên. Đêm 26-1-1954, trên hướng thứ yếu của chiến dịch, bộ đội ta nổ súng tiêu diệt các vị trí trên Đường 19 - An Khê mở màn chiến dịch. Ngày 5-2-1954, thị xã Kon Tum và toàn bộ vùng Bắc Tây Nguyên được giải phóng. Plâycu và các cứ điểm của địch ở miền Nam Tây Nguyên bị uy hiếp. Địch buộc phải bỏ dở cuộc tiến công vào Tuy Hoà; đồng thời phải điều động 11 tiểu đoàn từ Nam Bộ và Bình - Trị - Thiên lên tăng cường cho Plâycu và một số cứ điểm ở Nam Tây Nguyên.

 

Sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ và Trung Lào, Plâycu cùng một số cụm cứ điểm ở Nam Tây Nguyên trở thành nơi tập trung binh lực thứ tư của quân Pháp.

 

Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục đẩy mạnh mọi công tác chuẩn bị tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, từ cuối tháng 1-1954, bộ đội chủ lực ta phối hợp với bộ đội Pathét Lào mở cuộc tiến công địch ở Thượng Lào. Trải qua hơn 10 ngày chiến đấu, quân ta tiêu diệt 17 đại đội địch, thu hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, giải phóng lưu vực sông Nậm Hu. Nhân lúc địch hoang mang, một bộ phận liên quân Việt - Lào tiến công lên phía bắc, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phong Xa Lì rộng khoảng 10.000 km2. Từ sau chiến thắng này, cả một vùng rộng lớn Đông Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc của Việt Nam và khu giải phóng Sầm Nưa của Lào được nối liền thành một dải liên hoàn vững chắc.

 

Nhằm đối phó với tình hình trên, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương buộc phải lập một cầu hàng không đưa quân từ đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường cho Luông Phabăng - Mường Sài. Luông Phabăng - Mường Sài trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của địch trên chiến trường Đông Dương.

 

Phối hợp với các cuộc tiến công của bộ đội chủ lực trên các mặt trận chính diện, tại các mặt trận sau lưng địch, từ Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình - Trị - Thiên đến đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân ta đẩy mạnh chiến tranh du kích.

 

Ở Nam Bộ, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đẩy mạnh tiến công vào vùng tạm bị chiếm, tiêu diệt nhiều địch, kết hợp với công tác binh vận, tạo điều kiện cho quần chúng đấu tranh chính trị.

 

Ở Nam Trung Bộ, chiến tranh du kích phát triển mạnh, tiêu diệt và bức rút nhiều vị trí địch giải phóng nhiều vùng rộng lớn.

 

Ở Bình - Trị - Thiên, bộ đội ta hoạt động mạnh trên Đường số 9, phá huỷ nhiều cầu cống, tiêu diệt nhiều địch, diệt và bức địch rút 6 vị trí, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hoá và một phần huyện Cam Lộ (Quảng Trị). Trên Đường số 1 và Đường số 9, quân ta tiêu diệt nhiều xe và đoàn tàu của địch.

 

Đồng bằng Bắc Bộ là nơi quân địch tập trung đông nhất và cũng là nơi thường xuyên diễn ra các cuộc đọ trí, đọ sức gay go quyết liệt giữa ta và địch. Dưới sự lãnh đạo của Liên khu uỷ Liên khu III, Khu uỷ khu Tả Ngạn và Thành uỷ Hà Nội, các hoạt động tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích không ngừng phát triển và đạt nhiều kết quả. Phòng tuyến sông Đáy của địch bị phá vỡ; căn cứ của ta ở tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng được mở rộng. Con Đường số 5 - tuyến giao thông huyết mạch, được coi là yết hầu của địch, liên tiếp bị quân ta phục kích; nhiều lúc bị tê liệt; nhiều đoàn ô tô vận tải và tàu quân sự của địch bị phá huỷ. Quân ta liên tục tập kích các thành phố, thị xã, kể cả thủ đô Hà Nội và một số sân bay (Gia Lâm, Cát Bi), tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ máy bay và nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.

 

Như vậy, bước vào Đông - Xuân 1953 - 1954, thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, quân ta liên tiếp chủ động mở các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Đương; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích trong các vùng sau lưng địch, tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ phương tiện chiến tranh, giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn. Các hoạt động bền bỉ, liên tục, rộng khắp với hiệu quả cao của quân và dân ta buộc địch phải bị động phân tán lực lượng cơ đông đang tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ đến các chiến trường rừng núi; trong đó, bộ phận quân tinh nhuệ bậc nhất bị giam chân tại Điện Biên Phủ. Số quân cơ động của địch ở đồng bằng Bắc Bộ từ chỗ có 44 tiểu đoàn, chỉ còn lại 20 tiểu đoàn. Kế hoạch Nava bị phá sản một bước rất nghiêm trọng. Thắng lợi của ta trong các cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 là sự chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần cho quân và dân .ta mở trận quyết chiến chiến lược vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

 

Anchor

 

2. Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)

Sau khi không đạt được âm mưu bảo vệ chiến trường Tây Bắc, Thượng Lào và cũng không ngăn chặn được kế hoạch tiến công của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương quyết định chấp nhận cuộc chiến đấu với chủ lực ta tại chiến trường rừng núi Tây Bắc Việt Nam. Do đó, từ đầu tháng 12-1953, Nava chủ trương xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh.

 

Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn thuộc phía nam tỉnh Lai Châu, có chiều đài từ 18 đến 20 km; chiều rộng từ 6 đến 8 km; cách Hà Nội khoảng 300 km và cách Luông Phabăng khoảng 200 km theo đường chim bay. Thung lũng Điện Biên nằm gần biên giới Việt - Lào, trên một ngã ba có nhiều tuyến đường quan trọng. Dưới con mắt của các nhà quân sự Pháp, Điện Biên Phủ "là một vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương, mà còn đối với Đông Nam Á - một trục giao thông nối liền các miền biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc" 1. Đó là "một cái chìa khoá để bảo vệ Thượng Lào", một "bàn xoay" có thể đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc 2.

 

Điện Biên Phủ được xây dựng thành một hệ thống phòng ngự dầy đặc gồm 49 cứ điểm, mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự. Nhiều cứ điểm nằm kề nhau được tổ chức lại thành cụm cứ điểm; mỗi một cụm cứ điểm chính là một trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp, có lực lượng cơ động và hoả lực riêng, có hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào dây thép gai dày đặc và có cả năng độc lập phòng ngự khá mạnh. Mỗi trung tâm đề kháng cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được che chở bằng một hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, bằng một hệ thống vật cản hàng rào hoặc bãi dây thép gai, bãi mỉm cùng một hệ thống hoả lực mạnh. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có 8 cụm cứ điểm và được xây dựng thành 3 phân khu có khả năng yểm trợ cho nhau: Phân khu Bắc có hai trung tâm đề kháng là Độc Lập và Bản Kéo; trong đó cứ điểm Độc Lập có nhiệm vụ án ngữ phía bắc, ngăn chặn cuộc tiến công của quân ta từ hướng Lai Châu vào Điện Biên Phủ.

 

Phân khu Nam đặt tại bản Hồng Cúm, có một sân bay dự bị, làm nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tiến công từ phía nam lên, đồng thời giữ con đường liên lạc với Thượng Lào.

 

Phân khu lớn nhất và quan trọng nhất là phân khu Trung tâm, đặt tại giữa thung lũng Mường Thanh (huyện lị Điện Biên, nay là thành phố Điện Biên). Tại phân khu này, có năm sở chỉ huy của Tướng Đờ Cátxtơri, một sân bay chính Mường Thanh - nơi được coi là "trái tim" và là cái "dạ dày" của tập đoàn cứ điểm.

 

Địch tập trung ở phân khu Trung tâm tới 2/3 lực lượng. Ở phía đông phân khu Trung tâm có một hệ thống cao điểm rất lợi hại (A1, C1, D1, El), hợp thành một bức bình phong thiên nhiên vững chắc mà địch cho là khó lòng vượt qua. Cụm cứ điểm Him Lam tuy thuộc phân khu Trung tâm, nhưng cùng với các cụm cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo là những vị trí ngoại vi đột xuất của địch, có nhiệm vụ án ngữ phía bắc và đông bắc, ngăn chặn cuộc tiến công của ta từ hướng Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ.

 

Lực lượng địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ tăng dần từ 6 tiểu đoàn lên 9 tiểu đoàn, rồi 12 tiểu đoàn. Cho đến thượng tuần tháng 3-1954, tổng số binh lực của địch là 17 tiểu đoàn (16.200 tên), phần lớn là các đơn vị lính Âu - Phi tinh nhuệ.

 

Với hệ thống công sự vững chắc, lực lượng cơ động mạnh, binh khí kĩ thuật nhiều và hiện đại, tập đoàn đế quốc Pháp - Mĩ đều coi Điện Biên Phủ là "Pháo đài bất khả xâm phạm", là "cái bẫy hiểm ác", "cái máy nghiền khổng lồ" để nghiền nát quân chủ lực của ta.

 

Trung tâm điểm của Kế hoạch Nava từ cho tập trung quân cơ động tại đồng bằng Bắc Bộ, đã chuyển sang xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vì vậy, muốn phá tan Kế hoạch Nava để ngăn chặn âm mưu của đế quốc Pháp - Mĩ, nhất thiết phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Có tiêu diệt được Điện Biên Phủ thì mới đập tan được âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Pháp - Mĩ . Tuy nhiên, sự cần thiết phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tầm quan trọng của Điện Biên Phủ không thể coi là cơ sở chủ yếu và duy nhất để hạ quyết tâm đánh Điện Biên Phủ. Vấn đề chủ yếu là căn cứ vào so sánh lực lượng cụ thể giữa ta và địch lúc bấy giờ, căn cứ vào những khả năng mới của quân ta và của địch để có thể đi đến quyết định đánh hay không đánh .

 

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị và nhận định: Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, nhưng nó có những chỗ yếu rất cơ bản. Tập đoàn này nằm sâu trong vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam, cách xa hậu phương của địch; mọi sự tiếp tế, tiếp viện đều dựa vào đường không, nên dễ bị cô lập.

 

Đối với ta, Điện Biên Phủ cũng là nơi xa hậu phương lớn (cách Việt Bắc và vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh từ 300 đến 500km). Vì vậy, nếu đánh Điện Biên Phủ, ta sẽ gặp khó khăn lớn nhất là vấn đề tiếp tế, hậu cần; nhưng nhân dân ta hoàn toàn có khả năng khắc phục được. Đó là, hậu phương của ta được xây dựng vững chắc về mọi mặt và đang chuyển mạnh trong cuộc cách mạng ruộng đất; chính quyền dân chủ nhăn dân và mặt trận dân tộc thống nhất dựa trên nền tảng liên minh công nông được củng cố và mở rộng. Hơn nữa, quân đội ta đã trưởng thành không chỉ về số lượng, mà cả về chất lượng, có khả năng đánh được một tập đoàn cứ điểm.

 

Từ nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, mang mật danh chiến dịch Trần Đình. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch tạt đây, giải phóng toàn bộ lãnh thổ Tây Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho bạn giải phóng miền Bắc Thượng Lào; đồng thời tiêu hao một phần sinh lực địch trên chiến trường Đông Dương.

 

Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch.

 

Trong Chỉ thị ngày 22-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân phải tập trung hoàn thành cho kì được.

 

Từ sau quyết định của Bộ Chính trị, mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch được xúc tiến rất khẩn trương. Bộ chỉ huy và Đảng uỷ Mặt trận được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ Mặt trận. Chính phủ ra quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do Phạm Văn Đồng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, làm Chủ tịch.

 

Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến thành ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", nhân dân ở các vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc, cũng như trong các vùng du kích và căn cứ du kích đồng bằng Bắc Bộ đều hăng hái, tự nguyện đóng góp sức lực, tiền của, sẵn sàng hi sinh hết thảy, kịp thời bảo đảm cung cấp cho chiến dịch. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ, chưa bao giờ sức mạnh hậu phương lại được phát huy cao độ và sử dụng một cách có hiệu quả như thời kì này.

 

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng bào các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc, Liên khu III, Liên khu IV đã đóng góp 261.453 dân công (tương đương 14 triệu ngày công), 25.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng ngàn tấn thực phẩm khác. Đặc biệt, đồng bào Tây Bắc đã có những cố gắng rất lớn. Tuy mới được giải phóng, đất rộng người thưa, đời sống còn rất khó khăn, nhưng trong chiến dịch này, đồng bào Tây Bắc đã dồn hết sức mình tiếp tế cho bộ đội 7.310 tấn gạo, 389 tấn thịt, 800 tấn rau xanh; đồng thời huy động 31 . 818 dân công làm công tác vận chuyển, sửa chữa cầu đường, xây dựng kho lán.

 

Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với các đơn vị công binh anh dũng phá bom nổ chậm, mở đường đến các trận địa. Hàng ngàn km đường được xây dựng và sửa chữa để phục vụ chiến dịch.

 

Các phương tiện vận chuyển từ thô sơ đến cơ giới được huy động. Hầu hết ô tô vận tải (628 chiếc) được đưa ra mặt trận. Bộ đội vận tải nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, xe chạy ban đêm không cần đèn, vượt qua bom nổ chậm, luôn tăng năng suất và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Khoảng 11.800 thuyền các loại ngược dòng sông Mã từ Thanh Hoá, vượt thác sông Đà từ Liên khu III, Hoà Bình... lên; hoặc xuôi dòng Nậm Na từ Phong Thổ, Lai Châu tiếp tế cho mặt trận. Khoảng 21.000 xe đạp thồ, 500 ngựa thồ và hàng ngàn xe trâu bò, xe cút kít... cũng được huy động phục vụ chiến dịch. Quân và dân ta đã tạo nên những kì tích trên mặt trận hậu cần phục vụ tiền tuyến, vượt ra khỏi mọi tính toán và dự kiến của kẻ thù khi chúng chấp nhận giao chiến với chủ lực của ta tại mặt trận Điện Biên Phủ.

 

Lực lượng cho lực ta tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ có các Đại đoàn 308, 312, 316 (thiếu 1 trung đoàn), Trung đoàn 57 (thuộc Đại đoàn 304); tất cả gồm 9 trung đoàn bộ binh và Đại đoàn 351 với một trung đoàn lựu pháo 105, một trung đoàn sơn pháo và súng cối, một trung đoàn pháo cao xạ và bốn tiểu đoàn công binh. Tổng số quân chủ lực cửa ta ở hoả tuyến có khoảng hơn 40.000; nếu tính cả tuyến hai là 55.000 người. Như vậy so với địch, ta có ưu thế hơn, nhưng không lớn.

 

Sau khi hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, cùng với công việc chuẩn bị, một vấn đề hết sức quan trọng được đặt ra là đánh như thế nào. Đó là vấn đề thuộc về phương châm chỉ đạo chiến dịch.

 

Thời gian đầu, căn cứ vào thực tế quân địch mới nhảy dù xuống, lực lượng của địch chưa được tăng cường, bố trí của chúng còn sơ hở, trận địa phòng ngự chưa được củng cố, còn mang tính dã chiến, ta chủ trương đánh nhanh giải quyết nhanh.

 

Đánh nhanh giải quyết nhanh có nhiều cái lợi: Quân ta đang sung sức, cuộc chiến đấu không kéo dài nên ít tiêu hao, mỏi mệt; vấn đề tiếp tế lương thực, đạn dược có thể đảm bảo chắc chắn, không gặp trở ngại lớn.

 

Tuy nhiên, "đánh nhanh giải quyết nhanh có một điều bất lợi rất lớn là quân ta, mặc dầu đã được chuẩn bị về tư tưởng và chiến thuật để đánh tập đoàn cứ điểm, nhưng chưa có kinh nghiệm thực tế, lần này là lần đầu đánh tập đoàn cứ điểm, lại gặp một tập đoàn cứ điểm mạnh"1. Điều đó có nghĩa là không bảo đảm chắc thắng. Bởi vậy, trong khi tiến hành công tác chuẩn bị, Bộ chỉ huy Mặt trận tiếp tục theo dõi tình hình địch và kiểm tra lại khả năng của ta.

 

Sau khi phát hiện lực lượng địch đã được tăng cường (16.200 tên), công sự của chúng đã được củng cố vững chắc, ta kiên quyết chuyển sang phương châm đánh chắc tiến chắc. Chiều 25- 12-1953, toàn bộ lực lượng của ta được lệnh rút ra khỏi trận địa, trở về nơi tập kết; các đơn vị pháo binh trước đây đã được lệnh kéo vào, lúc này được lệnh kéo ra. Để yểm trợ cho cuộc thu quân tạm thời, Đại đoàn 308 được lệnh phối hợp cùng Quân giải phóng Pa thét Lào mở cuộc tiến công về hướng Luông Phabăng, vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa thu hút hầu hết không quân của địch về hướng đó. Một công cuộc chuẩn bị mới với một khối lượng công tác tham mưu, chính trị và hậu cần rất lớn lại được triển khai.

 

Theo phương châm đánh chắc tiến chắc, chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ diễn ra trong thời gian dài, bao gồm nhiều trận đánh, mỗi trận tiêu diệt một hoặc nhiều cứ điểm; đánh từ ngoài vào trong. bao vây, chia cắt, triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của địch, tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm.

 

Tiến hành chiến dịch theo phương châm đánh chắc tiến chắc đương nhiên chúng ta sẽ gặp nhiều có khăn, trở ngại mới. Chiến dịch càng kéo dài, địch càng tăng cường công sự, lại có thể đưa thêm viện binh; bộ đội ta có thể bị tiêu hao, mỏi mệt và khó khăn lớn nhất là về cung cấp, tiếp tế. Nhưng đánh chắc tiến chắc, quân ta sẽ tạo ra được ưu thế về binh lực và hoả lực trong từng trận đánh, lại hợp với trình độ của bộ đội ta lúc đó. Theo phương châm này, chúng ta giữ được chủ động hoàn toàn, đồng thời có thể khoét sâu nhược điềm lớn nhất của địch là vấn đề tiếp tế vận tải. Như vậy, đánh chắc tiến chắc là bảo đảm chắc thắng, một nguyên tắc hàng đầu của chiến dịch.

 

Ngày 11-3-1954, trong lúc toàn mặt trận đang khẩn trương hoàn tất công việc chuẩn bị để kịp giờ nổ súng theo quy định, thì nhận được thư động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

 

"Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to tớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị, chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kĩ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin rằng các chú sẽ phát lệ thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới.

 

Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất.

 

Chúc các chú thắng to.

 

Bác hôn các chú” .

 

Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phổ biến tới cán bộ, chiến sĩ và anh chị em thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, tạo nên không khí phấn khởi, thi đua lập công trên khắp các trận địa.Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra theo ba đợt:

 

- Đợt 1 từ 13 đến 17-3-1954, quân ta tiến công tiêu diệt các cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Chỉ trong gần 5 ngày, với hai trận đánh lớn then chốt, quân ta đã đập tan hệ thống phòng ngự của địch trên hướng Bắc và Đông Bắc, xoá sổ phân khu Bắc và một bộ phận của phân khu Trung tâm, tiêu diệt gọn hai tiểu đoàn tinh nhuệ vào bậc nhất của địch, làm tan rã một tiểu đoàn khác, mở cửa vào phân khu Trung tâm, tạo điều kiện cho chiến dịch tiếp tục phát triển.

 

Sau chiến thắng đợt 1, theo chủ trương của Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận, bộ đội ta nhanh chóng tiếp cận bao vây, chia cắt quân địch bằng hệ thống giao thông hào; đồng thời tiếp tục khống chế sân bay, tích cực tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch.

 

Mặc dù bị địch tìm mọi cách ngăn chặn, nhưng các đường hào của quân ta vẫn ngày càng được nối dài, toả ra bao vây trận địa địch. Pie Lănggle, một sĩ quan nhà nghề của thực dân Pháp và là một trong những sĩ quan đầu tiên nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, đã phải thừa nhận: "Không ai có thể ngờ rằng trong 50 ngày bộ binh Việt Minh lại đào được tới 400 khi hào giao thông ở lớp ruộng của Điện Biên Phủ. Và Bộ chỉ huy quân ta đã khám phá được rằng lưỡi xẻng và lưỡi cuốc của họ cũng là những vũ khí mạnh mẽ như xe tăng và máy bay"1 .

 

Sau 10 ngày phấn đấu đầy hi sinh gian khổ, công cuộc xây dựng trận địa tiến công và bao vây mới của quân ta đã cơ bản hoàn thành, với hàng vạn hầm hố và trên 100 km đường hào bao kín trận địa trung tâm của đối phương. Nhờ có hệ thống hầm, hào đó mà "ta có điều kiện hạn chế viện binh của địch, làm khó khăn sự tiếp tế của chúng, nhất là phát huy được tất cả các cỡ hoả lực từ súng cối trở lên để uy hiếp tung thâm của địch... làm cho các cuộc oanh tạc dữ dội của địch gần như vô hiệu quả..."2; “đồng thời thực hiện được việc thắt chặt vòng vây và tạo điều kiện để tiếp cận và tiến công quân địch"3.

 

- Đợt 2, từ 30-3 đến 26-4- 1954, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các cao điểm phía đông phân khu Trung tâm. Chiều ngày 30-3, pháo binh ta dồn dập nhả đạn vào sở chỉ huy của Đờ Cátxtơri cùng các điểm cao C1, Dl, El, các trận địa pháo và khu vực quân cơ động Mường Thanh, Hồng Cúm. Địch hoang mang, không kịp trở tay đối phó do bị bất ngờ.

 

Tại khu đồi C1, cuộc tiến công của quân ta diễn ra khá nhanh gọn. Chỉ trong vòng 45 phút, quân ta chiếm lĩnh toàn bộ Cl và tiếp tục phát triển sang cứ điểm C2. Từ ngày 9-4, sau khi tăng cường lực lượng, địch tổ chức phản công chiếm lại đồi Cl để cải thiện thế đứng chân tại khu đông trận địa trung tâm. Hai bên ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn hào; đến cuối tháng 4, mỗi bên chiếm một nửa quả đồi.

 

Tại khu vực đồi E, sau hơn một giờ chiến đấu, quân ta hoàn toàn làm chủ mục tiêu. Tại khu vực đồi Dl, trận tiến công của ta diễn ra cũng khá thuận lợi, nhanh chóng tiêu diệt cứ điểm của địch. Thừa thắng, quân ta phát triển tiến công sang cứ điểm D2 và các ngọn đồi phía trong.

 

Tại khu vực đồi A1, địch có một hầm ngầm cố thủ. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ngay từ đầu. Hai bên giành nhau từng ngách hào, từng lô cất. Thế trận giằng co ở khu vực này kéo dài cho đến ngày 4- 4, mỗi bên chỉ giữ được một nửa cứ điểm: Ta nửa phần phía đông, địch nửa phần phía tây. Sau đó, quân ta tiếp tục củng cố, giữ vững trận địa và cuộc đọ sức giữa hai bên diễn ra quyết liệt suốt tháng 4-1954. Để chuẩn bị cho cuộc tiến công mới, quân ta đã hoàn thành một đường ngầm dài gần 50 mét tiến sát tới hầm ngầm của địch ở đồi A1 và đặt vào đó một khối bộc phá gần một tấn thuốc nổ TNT.

 

Trong thời gian mở đợt tấn công thứ hai, quân ta vừa dùng lực lượng nhỏ vây ép đánh lấn dưới mặt đất, vừa bắn máy bay, triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của địch. Bộ đội cao xạ cùng với các đơn vị súng máy phòng không của các đại đoàn bộ binh tạo thành một lưới lửa khống chế bầu trời Điện Biên Phủ trong tầm cao từ 3 km trở xuống. Máy bay địch phải thả dù từ độ cao trên 3 km, nên một phần ba số dù rơi vào khu vực trận địa của ta; trong đó có khá nhiều đạn dược các loại cùng nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men. Quân và dân ta ngày càng thêm phấn chấn, tích cực khắc phục khó khăn về tiếp tế, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi.

 

Cho đến cuối tháng 4-1954, vòng vây của quân ta xung quanh Mường Thanh, Hồng Cúm đã siết chặt. Mọi việc chuẩn bị cho đợt tiến công thứ ba cơ bản hoàn thành. Binh lính địch thực sự lâm vào tình trạng hết sức nguy khốn. Phạm vi chiếm đóng của chúng chỉ còn rất hẹp; lương thực, thực phẩm, đạn dược cạn dần. Những cơn mưa đầu mùa trút xuống khiến các chiến hào của địch bị ngập trong nước. Binh lính Pháp sống chui rúc, ngoi ngóp trong bùn lầy, dưới bom đạn, mưa gió dầm dề suốt ngày đêm đã nhanh chóng tiêu hao thể lực và suy sụp tinh thần chiến đấu.

 

Đứng trước nguy cơ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có thể bị tiêu diệt, Chính phủ Pháp ngày thêm bối rối và Mĩ cũng lo ngại. Ngoài những khoản viện trợ lớn, Bộ Quốc phòng Mĩ còn đề ra một kế hoạch hành binh mang tên Vô tua (Vautour - Diều hâu), dự kiến sẽ sử dụng 80 - 90 máy bay B.29 (loại máy bay chiến lược lớn nhất của Mĩ lúc bấy giờ) từ căn cứ Clác Phin được 150 máy bay chiến đấu của Hạm đội 7 hộ tống, đến ném bom "nghiền nát" các đơn v



Tin liên quan


Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước ở Trung, Đông Âu được giải phóng, lập nên chế độ dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên chủ...
Hai ngày sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, trong cuộc gặp các Khu trưởng và Đại đội trưởng tự vệ  thành Hà Nội  tại Toà Thị chính, Chủ...
Từ cuối năm 1949 - đầu năm 1950, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi ảnh hưởng thuận lợi đối với cách mạng Việt Nam. Ở  châu Âu , các nước...