Lịch sử Việt Nam
Bình Ngô đại cáo - bản tuyên ngôn độc lập thứ hai
Bình Ngô đại cáo - bản tuyên ngôn độc lập thứ hai

Bình Ngô đại cáo (chữ Hán: 平吳大誥) là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam, sau bài Nam quốc sơn hàBình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học với chức năng hành chính quan trọng đối với lịch sử dân tộc Việt Nam và là tác phẩm có chất lượng văn học tốt đẹp.

 

Đặt tên tác phẩm

 

Hiểu về từ Bình Ngô

Chu Nguyên Chương, người sáng lập ra nhà Minh là người Hào Châu, xưa thuộc đất Ngô, đó là đất tổ của nhà Minh. Năm 1356, Chu Nguyên Chương xưng Ngô Quốc Công, 8 năm sau ông cải xưng Ngô Vương. Bởi vậy Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Chu Nguyên Chương, vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương. Bình Ngô là bình tận gốc gác, giống nòi của giống họ Chu- Thái Tổ nhà Minh.

 

Hiểu về từ Đại cáo

Theo sách giáo khoa Văn học 10: Bình Ngô đại cáo dịch cho sát nghĩa là: tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô; rồi bổ sung thêm: bài này viết theo thể cáo.

Theo sách giáo khoa Văn học 9: Bình Ngô đại cáo là bài cáo có quy mô lớn, nói việc dẹp yên giặc Ngô.

Theo Nguyễn Đăng Na trong bài viết Bình Ngô đại cáo, một số vấn đề về chữ nghĩa:

  • Hán ngữ đại từ điển giải thích: đại cáo [大誥] là tên một thiên trong sách Thượng Thư. Lời tựa thiên Đại cáo có đoạn: Vũ vương mất, Tam Giám cùng Hoài di làm phản. Chu Công giúp Thành Vương trừ bỏ nhà Ân, viết Đại cáo. Khổng truyện rằng, Trình bày đại đạo [大道] để cáo [誥] với thiên hạ(trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ), nên lấy làm tên thiên, sau dùng để phiếm xưng những bài văn có tính chất điển cáo [典誥]. Như vậy, ban đầu, đại cáo [大誥] do hai chữ mang ý nghĩa quan trọng nhất trong mệnh đề trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ ghép lại, dùng để gọi tên một thiên trong Kinh Thư, rồi thành từ cố định chỉ loại đặc biệt của thể cáo. Đấy là nghĩa thứ nhất gắn với thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.

Theo ý này, Nguyễn Trãi nhân dịp chiến thắng quân Minh bày tỏ cho thiên hạ thấy cái đại đạo- đạo lý lớn nhất của Việt Nam là đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài Bình ngô đại cáo; vừa là mục đích mà thiên Đại cáo ở sách Thượng thư hằng dương cao. Khi đi đánh Vũ Canh, Chu Thành Vương truyền Đại cáo, bình xong quân Minh, Lê Thái Tổ cũng tuyên đại cáo, tác giả muốn so sánh Lê Thái Tổ với Chu Thành Vương và muốn bài bình Ngô của thời đại vua Lê Thái Tổ mang ý nghĩa ngang tầm với thiên Đại cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung hoa cổ đại.

  • Đại cáo còn có nghĩa thứ hai gắn với đương đại thời Minh. Nghĩa này cũng không kém phần quan trọng: Văn kiện pháp luật ban bố năm Hồng Vũ thứ 18 thời Minh gọi là Đại cáo. Hồng Vũ [洪武] là niên hiệu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương [朱元璋] – người khai sáng ra nhà Minh, làm hoàng đế Trung Hoa những năm 1368 – 1398.

Nguyễn Trãi muốn thiên hạ thấy rằng, bài cáo là một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, ngang với văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố. Văn kiện của Chu Nguyên Chương tượng trưng cho uy quyền và công cụ bảo vệ nhà Minh, ở Việt Nam, Nguyễn Trãi thay lời vua Lê Thái Tổ dùng Đại cáo để tuyên bố bình Ngô thắng lợi và khẳng định sự độc của Đại Việt.

Bối cảnh

Năm 1427, quân khởi nghĩa Lam Sơn đánh tan 2 đạo viện binh của quân Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạnh chỉ huy. Lê Thái Tổ sai người mang viên tướng bị bắt sống Hoàng Phúc, hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan Chinh Lỗ Phó Tướng Quân về thành Đông Quan cho Vương Thông biết. Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan biết viện binh đã bị thua, hoảng sợ viết thư xin hòa.

Lê Thái Tổ chấp thuận, sai sứ mang tờ biểu và vật phẩm sang nhà Minh, vua Minh sai quan Lễ Bộ Thị Lang là Lý Kỳ đưa chiếu sang phong cho Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương, bỏ tòa Bố Chính và triệt quân về Tàu. Tháng chạp năm Đinh Mùi, Vương Thông theo lời ước với Bình Định Vương Lê Lợi, đem bộ binh qua sông Nhị Hà, còn thủy quân theo sau. Vì quân Minh tàn bạo, có người khuyên Lê Lợi đem quân mà giết hết đi, Lê Lợi không chấp thuận, cấp lương thảo và vật dụng cho quân Minh trở về. Năm 1428, Lê Lợi dẹp yên quân Minh, liền sai Nguyễn Trãi thay lời ngài làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết.

Tờ cáo là một thông báo có người dân trong nước về việc đánh bại nhà Minh và sự khẳng định sự độc lập của Đại Việt. Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không chỉ tuyên bố độc lập, mà còn khẳng định sự bình đẳng của Đại Việt với Trung Quốc trong lịch sử từ trước đến nay và thể hiện nhiều ý tưởng về sự công bằng, vai trò của người dân trong lịch sử và cách giành chiến thắng của quân khởi nghĩa Lam Sơn. Ngoài ra, Nguyễn Trãi sử dụng Bình Ngô đại cáo để chứng minh tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trả lời câu hỏi tại sao quân khởi nghĩa Lam Sơn có thể chiến thắng quân đội nhà Minh đó là chính sách dựa vào nhân dân.

 

Nội dung

Bài Bình Ngô đại cáo là thông báo bằng văn bản và được viết theo thể văn biền ngẫu. Nguyên tác được viết bằng chữ Hán, và được các học giả như Ngô Tất Tố, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim dịch sang tiếng Việt. Kết cấu bài cáo gổm 5 đoạn:

  • Đoạn 1: Từ đầu... đến Chứng cứ rành rành. : Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt.
  • Đoạn 2: Từ Vừa rồi... đến Trời đất chẳng dung tha. : Tố cáo và kết án tội ác tày trời của giặc Minh.
  • Đoạn 3: Từ Ta đây... đến Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ: Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp.
  • Đoạn 4: Từ Rốt cuộc: Lấy đại nghĩa thắng hung tàn,... đến Mà cũng xưa nay chưa từng nghe thấy: Quá trình mười năm kháng chiến và thắng lợi vẻ vang.
  • Đoạn 5: Phẩn còn lại: Khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lời tuyên bố hoà bình.

  • Sách Lam Sơn thực lục chép rằng:

    Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép:

    Kết thúc bài cáo, sách có lời chua rằng (Bản Đại cáo này do văn thần Nguyễn Trãi soạn)

    Theo sách Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận, soạn giả Lê Tung khi bình về vua Lê Thái Tổ, Lê Tung viết rằng: Bình Ngô Đại Cáo không câu nào không là lời nhân nghĩa, trung tín; Lam Sơn Thực Lục không chỗ nào không là đạo tu tề trị bình.

    Ý nghĩa

    Bình Ngô đại cáo là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học. Chính vì thế, Bình Ngô đại cáo đã trở thành tác phẩm cổ điển sớm đi vào sách Giáo khoa từ Phổ thông cơ sở đến Phổ thông trung học và được giảng dạy ở tất cả các trường Cao đẳng, Đại học ngành khoa học xã hội - nhân văn ở Việt Nam.

     

    Nguyên bản chữ Hán và phiên âm Hán Việt

    Nguyên bản chữ Hán Phiên âm Hán Việt

    代天行化皇上若曰。

    蓋 聞 ﹕

    仁 義之 舉, 要 在 安 民,
    弔伐 之 師 莫 先 去 暴 。
    惟 我 大 越 之 國,
    實 為文 獻 之 邦 。
    山 川 之 封域 既 殊,
    南 北 之 風 俗亦 異 。
    自 趙 丁 李 陳 之肇 造 我 國,
    與 漢 唐 宋元 而 各 帝 一 方 。
    雖 強弱 時 有 不 同
    而 豪 傑 世未 常 乏 。

    故 劉 龔 貪 功以 取 敗,
    而 趙 禼 好 大 以 促 亡 。
    唆 都 既 擒 於 鹹 子 關 ,
    烏 馬 又 殪 於 白 藤 海 。
    嵇 諸 往 古,
    厥 有 明 徵。

    頃 因 胡 政 之 煩 苛 。
    至 使 人 心 之 怨 叛 。
    狂明 伺 隙, 因 以 毒 我 民;
    惡 黨 懷 奸, 竟 以 賣我 國 。
    焮 蒼 生 於 虐 焰,
    陷 赤 子 於 禍 坑 。
    欺天 罔 民, 詭 計 蓋 千 萬狀;
    連 兵 結 釁 稔 惡 殆二 十 年 。
    敗 義 傷 仁 ,乾 坤 幾 乎 欲 息;
    重 科厚 歛, 山 澤 靡 有 孑 遺。
    開 金 場 塞 冒 嵐 瘴 而斧 山 淘 沙,
    採 明 珠 則觸 蛟 龍 而 緪 腰 汆 海 。
    擾 民 設 玄 鹿 之 陷 阱 ,
    殄 物 織 翠 禽 之 網 羅 。
    昆 虫 草 木 皆 不 得 以 遂其 生,
    鰥 寡 顛 連 俱 不獲 以 安 其 所 。
    浚 生 靈之 血 以 潤 桀 黠 之 吻 牙;
    極 土 木 之 功 以 崇 公私 之 廨 宇 。
    州 里 之 征徭 重 困,
    閭 閻 之 杼 柚皆 空 。
    決 東 海 之 水 不足 以 濯 其 污,
    罄 南 山之 竹 不 足 以 書 其 惡 。
    神 民 之 所 共 憤,
    天 地之 所 不 容 。



    奮 跡 藍山,
    棲 身 荒 野 。
    念 世讎 豈 可 共 戴,
    誓 逆 賊難 與 俱 生 。
    痛 心 疾 首者 垂 十 餘 年,
    嘗 膽 臥薪 者 蓋 非 一 日 。
    發 憤忘 食, 每 研 覃 韜 略 之書,
    即 古 驗 今, 細 推究 興 亡 之 理 。
    圖 回 之志
    寤 寐 不 忘 。
    當 義 旗初 起 之 時,
    正 賊 勢 方張 之 日 。

    奈 以 ﹕

    人 才秋 葉,
    俊 傑 晨 星 。
    奔走 先 後 者 既 乏 其 人 ,
    謀 謨 帷 幄 者 又 寡 其 助。
    特 以 救 民 之 念, 每鬱 鬱 而 欲 東;
    故 於 待賢 之 車, 常 汲 汲 已 虛左 。

    然 其

    得 人 之 效 茫若 望 洋,
    由 己 之 誠 甚於 拯 溺 。
    憤 兇 徒 之 未滅,
    念 國 步 之 遭 迍 。
    靈 山 之 食 盡 兼 旬,
    瑰縣 之 眾 無 一 旅 。
    蓋 天欲 困 我 以 降 厥 任,
    故與 益 勵 志 以 濟 于 難 。
    揭 竿 為 旗, 氓 隸 之 徒四 集
    投 醪 饗 士, 父 子之 兵 一 心 。
    以 弱 制 彊, 或 攻 人 之 不 備;
    以寡 敵 眾 常 設 伏 以 出 奇。

    卒 能

    以 大 義 而 勝 兇殘,
    以 至 仁 而 易 彊 暴。
    蒲 藤 之 霆 驅 電 掣 ,
    茶 麟 之 竹 破 灰 飛 。
    士氣 以 之 益 增,
    軍 聲 以之 大 振 。
    陳 智 山 壽 聞風 而; 褫 魄,
    李 安 方 政 假 息 以 偷生 。
    乘 勝 長 驅, 西 京既 為 我 有;
    選 兵 進 取, 東 都 盡 復 舊 疆 。
    寧橋 之 血 成 川, 流 腥 萬里;
    窣 洞 之 屍 積 野 ,遺 臭 千 年 。
    陳 洽 賊 之腹 心, 既 梟 其 首;
    李亮 賊 之 奸 蠹, 又 暴 厥屍 。
    王 通 理 亂 而 焚 者益 焚,
    馬 瑛 救 鬥 而 怒者 益 怒 。
    彼 智 窮 而 力盡, 束 手 待 亡;
    我 謀伐 而 心 攻, 不 戰 自 屈。
    謂 彼 必 易 心 而 改 慮,
    豈 意 復 作 孽 以 速 辜。
    執 一 己 之 見 以 嫁 禍於 他 人,
    貪 一 時 之 功以 貽 笑 於 天 下 。
    遂 靈宣 德 之 狡 童, 黷 兵 無厭;
    仍 命 晟 昇 之 懦 將, 以 油 救 焚 。
    丁 未 九月 柳 昇 遂 引 兵 猶 邱 溫而 進,
    本 年 十 月 木 晟又 分 途 自 雲 南 而 來 。
    予 前 既 選 兵 塞 險 以 摧其 鋒,
    予 後 再 調 兵 截路 以 斷 其 食 。
    本 月 十八 日 柳 昇 為 我 軍 所 攻, 計 墜 於 支 稜 之 野 ;
    本 月 二 十 日 柳 昇 又 為我 軍 所 敗, 身 死 於 馬鞍 之 山 。
    二 十 五 日 保定 伯 梁 銘 陣 陷 而 喪 軀,
    二 十 八 日 尚 書 李 慶計 窮 而 刎 首 。

    我 遂 迎刃 而 解,
    彼 自 倒 戈 相攻 。
    繼 而 四 面 添 兵 以包 圍,
    期 以 十 月 中 旬而 殄 滅 。
    爰 選 貔 貅 之士,
    申 命 爪 牙 之 臣 。
    飲 象 而 河 水 乾,
    磨 刀而 山 石 鈌 。
    一 鼓 而 黥刳 鱷 斷,
    再 鼓 而 鳥 散麇 驚 。
    決 潰 蟻 於 崩 堤,
    振 剛 風 於 稿 葉 。
    都督 崔 聚 膝 行 而 送 款 ,
    尚 書 黃 福 面 縛 以 就 擒。
    僵 屍 塞 諒 江 諒 山 之途,
    戰 血 赤 昌 江 平 灘之 水 。
    風 雲 為 之 變 色,
    日 月 慘 以 無 光 。

    其雲 南 兵 為 我 軍 所 扼 於梨 花 ,自 恫 疑 虛 喝 而先 以 破 腑;
    其 沐 晟 眾 聞 昇軍 大 敗 於芹 站, 遂 躪 藉 奔 潰 而 僅 得 脫 身。
    冷 溝 之 血杵 漂, 江 水 為 之 嗚 咽;
    丹 舍 之 屍 山 積, 野草 為 之 殷 紅 。
    兩 路 救兵 既 不 旋 踵 而 俱 敗 ,
    各 城 窮 寇 亦 將 解 甲 以出 降 。
    賊 首 成 擒, 彼既 掉 餓 虎 乞 憐 之 尾 ;
    神 武 不 殺, 予 亦 體 上帝 孝 生 之 心 。
    參 將 方政, 內 官 馬 騏, 先 給艦 五 百 餘 艘, 既 渡 海而 猶 且 魂 飛 魄 散;
    總兵 王 通, 參 政 馬 瑛 ,又 給 馬 數 千 餘 匹, 已還 國 而 益 自 股 慄 心 驚。
    彼 既 畏 死 貪 生, 而修 好 有 誠;
    予 以 全 軍為 上, 而 欲 民 之 得 息。

    非 惟 謀 計 之 極 其 深遠,
    蓋 亦 古 今 之 所 未見 聞 。
    社 稷 以 之 奠安,
    山 川 以 之 改 觀 。
    乾 坤 既 否 而 復 泰,
    日月 既 晦 而 復 明 。
    于 以開 萬 世 太 平 之 基,
    于以 雪 天 地 無 窮 之 恥 。
    是 由 天 地 祖 宗 之 靈 有 以 默 相 陰 佑 而 致 然 也 !

    於 戲 !

    一戎 大 定, 迄 成 無 兢 之功;
    四 海 永 清, 誕 布維 新 之 誥 。
    播 告 遐 邇,
    咸 使 聞 知 。

    Đại thiên hành hóa hoàng thượng nhược viết:

    Cái văn:

    Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
    Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.
    Duy ngã Đại Việt chi quốc,
    Thực vi văn hiến chi bang.
    Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
    Nam bắc chi phong tục diệc dị.
    Tự Triệu Đinh Lý Trần chi triệu tạo ngã quốc,
    Dữ Hán Đường Tống Nguyên nhi các đế nhất phương.
    Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
    Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.

    Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
    Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
    Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
    Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
    Kê chư vãng cổ,
    Quyết hữu minh trưng.

    Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà,
    Trí sử nhân tâm chi oán bạn.
    Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
    Nguỵ đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
    Hân thương sinh ư ngược diệm,
    Hãm xích tử ư họa khanh.
    Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
    Liên binh kết hấn, nẫm ác đãi nhị thập niên.
    Bại nghĩa thương nhân, càn khôn ky hồ dục tức;
    Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mỹ hữu kiết di.
    Khai kim trường, tắc mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
    Thái minh châu, tắc xúc giao long nhi hoàn yêu thộn hải.
    Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
    Điễn vật chức thúy cầm chi võng la.
    Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
    Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
    Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
    Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
    Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
    Lư diêm chi trữ trục giai không.
    Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
    Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
    Thần dân chi sở cộng phẫn,
    Thiên địa chi sở bất dung.

    Dư:

    Phấn tích Lam Sơn,
    Thê thân hoang dã.
    Niệm thế thù khởi khả cộng đái,
    Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
    Thống tâm tật thủ giả thùy thập dư niên,
    Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
    Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
    Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
    Đồ hồi chi chí
    Ngộ mị bất vong.
    Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
    Chính tặc thế phương trương chi nhật.

    Nại dĩ:

    Nhân tài thu diệp,
    Tuấn kiệt thần tinh.
    Bôn tẩu tiền hậu giả ký phạp kỳ nhân,
    Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
    Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
    Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.

    Nhiên kỳ:

    Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
    Do kỉ chi thành thậm ư chửng nịch.
    Phẫn hung đồ chi vị diệt,
    Niệm quốc bộ chi tao truân.
    Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
    Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
    Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
    Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
    Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
    Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
    Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
    Dĩ quả địch chúng, thường thiết phục dĩ xuất kỳ.

    Tốt năng:

    Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
    Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo.
    Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
    Trà Lân chi trúc phá khôi phi.
    Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
    Quân thanh dĩ chi đại chấn.
    Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
    Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
    Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
    Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
    Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
    Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
    Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
    Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
    Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
    Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
    Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
    Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
    Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
    Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
    Chấp nhất kỷ chi kiến, dĩ giá họa ư tha nhân,
    Tham nhất thì chi công, dĩ di tiếu ư thiên hạ.
    Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
    Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi nọa tướng, dĩ du cứu phần.
    Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
    Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
    Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
    Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
    Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế trụy ư Chi Lăng chi dã;
    Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã Yên chi sơn.
    Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
    Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.

    Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
    Bỉ tự đảo qua tương công.
    Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
    Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
    Viên tuyển tỳ hưu chi sĩ,
    Thân mệnh trảo nha chi thần.
    Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
    Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
    Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
    Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
    Quyết hội nghĩ ư băng đê,
    Chấn cương phong ư cảo diệp.
    Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
    Thượng thư Hoàng Phúc diện phược dĩ tựu cầm.
    Cương thi tái Lạng Giang, Lạng Sơn chi đồ,
    Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
    Phong vân vị chi biến sắc,
    Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.

    Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
    Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân đại bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
    Lãnh Câu chi huyết chử phiêu, giang thủy vị chi ô yết;
    Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
    Lưỡng lộ cứu binh, ký bất toàn chủng nhi câu bại,
    Các thành cùng khấu, diệc tương giải giáp dĩ xuất hàng.
    Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
    Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
    Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;
    Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
    Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;
    Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.

    Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
    Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
    Xã tắc dĩ chi điện an,
    Sơn xuyên dĩ chi cải quán.
    Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
    Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
    Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
    Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
    Thị do thiên địa tổ tông chi linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu, nhi trí nhiên dã.

    Ô hô!

    Nhất nhung đại định, ngật thành vô cạnh chi công;
    Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
    Bá cáo hà nhĩ,
    Hàm sử văn tri.

     

    Bản dịch của Trần Trọng Kim

    Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt từ trước, vốn xưng văn-hiến đã lâu. Sơn-hà cương-vực đã chia, phong-tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào-kiệt đời nào cũng có.

    Vậy nên:

    Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng.

    Vừa rồi:

    Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà, để trong nước nhân-dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân-nghĩa, nát cả càn-khôn, nặng khoa-liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc; nheo-nhóc thay quan quả điên-liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no-nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa. Nặng-nề về những nỗi phu-phen, bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi. Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội; dơ-bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần-nhân nhịn được.

    Ta đây:

    Núi Lam-sơn dấy nghĩa, chốn hoang-dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch-tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ. Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị, chỉ băn-khoăn một nỗi đồ-hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.

    Lại ngặt vì:

    Tuấn-kiệt như sao buổi sớm, nhân-tài như lá mùa thu. Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần, nơi duy-ác hiếm người bàn-bạc. Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông; mấy thủa đợi-chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng-ngắt, vẫn mịt-mờ như kẻ vọng dương; thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như khi chửng-nịch. Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc, phần thì lo quốc-bộ khó-khăn. Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần; khi Khôi-huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma; cho nên ta cố-gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.

    Dọn hay:

    Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn, lấy chí nhân mà thay cường-bạo. Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy, miền Trà-lân trúc phá tro bay. Sĩ-khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn-tránh. Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc, lấy Đông-đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông; bến Tụy-động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương thông hết cấp lo lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ-duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi; lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm đinh-mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu-ôn tiếng sang; lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc-quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương-đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên. Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong; hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ-tốt ra oai tì hổ, thần-thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình-ngạc, đánh hai trận tan-tác chim-muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn thây chất đầy đường, Xương-giang, Bình-than máu trôi đỏ nước. Gớm-ghê thay ! sắc phong-vân cũng đổi; thảm-đạm thay ! sáng nhật-nguyệt phải mờ. Binh Vân-nam nghẽn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần-trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ; thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú-phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ-ngơi.

    Thế mới là mưu-kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang-san từ đây mở mặt, xã-tắc từ đầy vững nền. Nhật-nguyệt hối mà lại minh, càn-khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn-chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu-làu. Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng che-chở, giúp-đỡ cho nước ta vậy.

    Than ôi!

    Vẫy-vùng một mảng nhung-y nên công đại-định, phẳng-lặng bốn bề thái-vũ mở hội vĩnh-thanh. Bá-cáo xa gần, ngỏ cùng cho biết.

     

    Bản dịch của Ngô Tất Tố

    Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

    Từng nghe:

    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
    Như nước Đại Việt ta từ trước
    Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
    Núi sông bờ cõi đã chia
    Phong tục Bắc Nam cũng khác
    Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
    Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
    Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
    Song hào kiệt thời nào cũng có.

    Cho nên:
    Lưu Cung tham công nên thất bại,
    Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
    Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
    Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
    Việc xưa xem xét,
    Chứng cớ còn ghi.

    Vừa rồi:

    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
    Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
    Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
    Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
    Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
    Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
    Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
    Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
    Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
    Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
    Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
    Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
    Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
    Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
    Nặng nề những núi phu phen,
    Tan tác cả nghề canh cửi.
    Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
    Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
    Lẽ nào trời đất dung tha,
    Ai bảo thần nhân chịu được?


    Ta đây:

    Núi Lam sơn dấy nghĩa
    Chốn hoang dã nương mình
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung
    Căm giặc nước thề không cùng sống
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đang mạnh.

    Lại ngặt vì:

    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu,
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

    Thế mà:

    Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
    Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần vì giận quân thù ngang dọc,
    Phần vì lo vận nước khó khăn,
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
    Ta gắng trí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

    Trọn hay:

    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
    Sĩ khí đã hăng
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
    Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
    Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
    Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
    Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
    Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
    Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
    Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
    Sĩ tốt kén người hùng hổ
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc
    Đánh hai trận tan tác chim muông.
    Cơn gió to trút sạch lá khô,
    Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
    Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
    Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

    Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
    Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
    Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
    Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
    Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
    Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
    Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
    Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
    Chẳng những mưu kế kì diệu
    Cũng là chưa thấy xưa nay
    Xã tắc từ đây vững bền
    Giang sơn từ đây đổi mới
    Càn khôn bĩ rồi lại thái
    Nhật nguyệt hối rồi lại minh
    Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
    Muôn thuở nền thái bình vững chắc
    Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

    Than ôi!

    Một cỗ nhung y chiến thắng,
    Nên công oanh liệt ngàn năm
    Bốn phương biển cả thanh bình,
    Ban chiếu duy tân khắp chốn.

    Xa gần bá cáo,
    Ai nấy đều hay.

     

    Bản dịch của Mạc Bảo Thần



Tin liên quan


Dụ chư tỳ tướng hịch văn  (諭諸裨將檄文), thường được gọi là  Hịch tướng sĩ , là bài hịch viết bằng văn ngôn của  Trần Hưng Đạo   Trần...
Nam quốc sơn hà  (chữ Hán: 南國山河) là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt viết bằng văn ngôn không rõ tác giả. Đây là...
Đại Việt sử ký  (chữ Hán: 大越史記) là  bộ quốc sử đầu tiên  của nước Việt Nam do  Lê Văn Hưu  đời Trần soạn ra, gồm 30 quyển, chép...
Phò giá về kinh  (còn được biết đến với các tên như  tụng giá hoàn kinh sư ,  tụng giá hoàn kinh sứ ) là...
Bản  tuyên ngôn độc lập  của Việt Nam được  Hồ Chí Minh  soạn thảo, và đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là...